11 thg 7, 2015

Tăng hay Không Tăng Học Phí Đại Học ? Phạm Thị Ly

TBKTSG Online) - Nhiều người phản đối việc tăng học phí do lo ngại sẽ làm giảm khả năng tiếp cận giáo dục bậc cao của người thu nhập thấp, còn quan điểm của Nhóm Đối thoại giáo dục cho rằng chủ trương giữ học phí thấp để người nghèo có thể theo học là một cách tiếp cận sai lầm. Cần nhìn nhận về vấn đề này ra sao?
Làm sao để tăng chất lượng giáo dục đại học, đồng thời bào đảm công bằng trong cơ hội tiếp cận giáo dục và sử dụng ngân sách nhà nước? Ảnh: giaoduc.net.vn
Bất bình đẳng là có thật
Quan điểm của Nhóm Đối thoại Giáo dục (VED) cho rằng chủ trương giữ học phí thấp để người nghèo có thể theo học là một cách tiếp cận sai lầm vì học phí thấp làm cho các trường không có đủ nguồn thu để cấp học bổng cho sinh viên nghèo; đồng thời đa số nguồn lực của trường phải dựa vào ngân sách nhà nước. Vì vậy, chỉ sinh viên từ gia đình khá giả mới đi học đại học được, và chi phí đào tạo các sinh viên này lại được nhà nước bao cấp là chủ yếu. Nói cách khác, như GS. Phạm Phụ đã nói, giữ học phí thấp là lấy tiền của người nghèo để nuôi người giàu.
Có thể đặt ra một số câu hỏi như sau: Vì sao học phí thấp thì chỉ sinh viên từ gia đình khá giả mới đi học được? Hiện nay số sinh viên thuộc nhóm thu nhập thấp đang chiếm tỉ lệ như thế nào trong toàn hệ thống, và nếu tăng học phí, và tăng đến mức độ nào, thì có bao nhiêu sinh viên có thể được hưởng lợi từ việc tăng học phí này và bao nhiêu sinh viên sẽ mất cơ hội học tập vì học phí gia tăng, và cuối cùng, hệ quả của những điều này là gì? Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ tiếp cận đại học (ĐH) của người dân, bài này chỉ xem xét yếu tố khả năng tài chính.
Theo kết quả tổng điều tra mức sống hộ gia đình của Tổng cục Thống kê năm 2012, hiện đang có mức khác biệt rất cao trong khả năng tiếp cận ĐH giữa các nhóm thu nhập khác nhau ở Việt Nam: số người có bằng đại học trong độ tuổi 25-34 chỉ chiếm 0,4% trong nhóm thu nhập thấp nhất, trái lại, con số này ở nhóm thu nhập cao nhất là 20,1%. So với hai con số này của năm 2006 là 0,2 và 14,1 ta có thể thấy cả hai nhóm đều tăng, và tuy khoảng cách có được thu hẹp lại, nhưng cũng vẫn còn rất xa.
Xét riêng chỉ số công bằng giáo dục (EEI - phản ánh khả năng có được bằng ĐH trong các nhóm dân số khác nhau), thì con số này trong cả nước là 37,76%, kém xa so với các nước phát triển như Hà Lan, Anh, Canada, Mỹ lần lượt là 67%, 64%, 63%, 57% .
Nếu tính số sinh viên hiện nay, thì chỉ có 3% đến từ nhóm 20% dân số nghèo nhất. Xét cụ thể theo các nhóm thu nhập khác nhau ở Việt Nam, với nhóm thu nhập trung bình thấp chỉ số này là 31,61; và với nhóm thu nhập cao nhất là 60,66. Nói cách khác, tình trạng bất bình đẳng về cơ hội học tập ĐH đang rất nghiêm trọng. Đó chính là lý do Nhóm Đối thoại Giáo dục cho rằng hiện nay phần lớn sinh viên không thuộc những gia đình nằm trong tầng lớp thu nhập thấp nhất.
Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng cần cân nhắc nhiều hơn trước khi rút ra một kết luận như trên. Một tài liệu của UNESCO tính toán từ dữ liệu của Tổng cục Thống kê năm 2011 cho biết, 51% tổng số sinh viên hiện nay là từ nhóm 20% dân số giàu nhất. Con số này thoạt nhìn có vẻ khó tin, nhưng nó có thể đúng, nếu ta tính đến một điều là trong 20% dân số được gọi là giàu nhất, chỉ một số ít người thực sự giàu. Với nhóm này, thì con cái đã đi học ở nước ngoài, hoặc ít ra là những trường tư có học phí rất cao trong nước. Do đó việc tăng học phí, nếu diễn ra, sẽ ảnh hưởng lớn đến rất nhiều sinh viên (và rộng ra là rất nhiều gia đình). Nếu chúng ta tính đến một thực tế là, càng nghèo, thì người dân càng tha thiết cho con vào ĐH để mong thoát khỏi cuộc sống lầm than, thì sẽ thấy không ít gia đình đã phải bán nhà cửa, ruộng vườn, vay mượn để con cái theo đuổi việc học.
Vì vậy chúng tôi cho rằng nhận định sau đây của VED cần được xem xét thận trọng hơn: “(1) Học phí thấp làm cho các trường không có đủ nguồn thu để cấp học bổng cho sinh viên nghèo; (2) Học phí thấp dẫn đến đa số nguồn lực của trường phải dựa vào ngân sách nhà nước; (3) Vì hai lý do này, chỉ sinh viên từ gia đình khá giả mới đi học đại học được”. Chúng tôi cho rằng tuy cả hai nhận định (1) và (2) đều đúng, nhưng nó không nhất thiết dẫn đến cái kết luận (3) tiếp theo như trên.
Có một thực tế là khả năng chi trả của người dân rất có giới hạn. Về mặt tài chính, có hai lý do trực tiếp dẫn đến hiện trạng khả năng theo đuổi ĐH rất thấp trong nhóm thu nhập thấp. Một là chi phí theo học ĐH trường công hiện chiếm 96,89% tổng thu nhập của một gia đình thu nhập thấp (dưới 5 triệu đồng/tháng), còn nếu học trường tư thì chiếm đến 122,12%. Trong lúc đó, với gia đình thu nhập trên 10 triệu đồng/tháng thì chi phí học trường công chỉ chiếm 23,51% và trường tư là 32,67%. Nếu tính riêng học phí, thì học phí trường công chiếm 16,77% tổng thu nhập của gia đình thu nhập thấp, trường tư chiếm 40,70%.
Khuyến nghị chính sách
Ở các nước, có ba chiến lược chính đối với học phí ĐH: (i) học phí cao, mức hỗ trợ cao cho sinh viên; (ii) học phí trung bình, hỗ trợ trung bình; (iii) học phí thấp, mức hỗ trợ thấp . Cách thứ nhất có nhược điểm là, nó để lại một gánh nặng nợ nần cho sinh viên, và nếu như triển vọng việc làm không mấy sáng sủa, số người theo học ĐH sẽ giảm làm suy giảm chất lượng của nguồn nhân lực và năng lực cạnh tranh của quốc gia. Nếu ngân sách nhà nước phải bù quá nhiều cho khoản không thu hồi được thì thực chất cũng chẳng khác nào bao cấp, nhưng điều này lại kích thích thái độ thiếu trách nhiệm của người học.
Cách thứ ba, học phí thấp và hỗ trợ sinh viên thấp giúp làm tăng cơ hội vào ĐH, tăng số người được học ĐH. Tất nhiên nguồn thu của các trường sẽ giảm, nghĩa là hoặc ngân sách công phải tài trợ trực tiếp cho các trường, hoặc các trường phải tìm được những nguồn thu khác từ hiến tặng và dịch vụ phục vụ cộng đồng. Đây là cách Việt Nam đang làm, và “những nguồn thu khác” của các trường trong những năm qua chủ yếu là đào tạo tại chức, từ xa, một hình thức hủy hoại các tiêu chuẩn học thuật trong thực tế và làm cho bằng cấp trở nên mất giá như ngày nay.
Mặt khác, khoản thu học phí thấp đang được bù đắp bằng ngân sách nhà nước cấp trực tiếp cho các trường, có nghĩa là Nhà nước đang gián tiếp tài trợ cho 51% sinh viên trong nhóm 20% dân số có thu nhập cao nhất bằng tiền thuế của toàn dân trong đó có người nghèo. Điều này làm cho gánh nặng ngân sách tăng lên, nghĩa là phải tăng thuế, và những khoản tài trợ trực tiếp cho sinh viên thuộc nhóm thu nhập thấp phải giảm đi.
Trong khi đó, chiến lược thứ hai tìm cách cân bằng giữa nhu cầu của các trường, khả năng tài trợ của ngân sách địa phương, và khả năng chi trả của người dân, để ba bên cùng chia sẻ gánh nặng, thay vì trút gánh nặng từ bên này sang bên khác.
Trong trường hợp Việt Nam, có ba điểm cụ thể cần tính đến khi xác định chính sách học phí: một là khả năng của ngân sách và hiệu quả sử dụng nguồn tài chính công ; hai là khả năng chi trả của người dân và hiện trạng trong vấn đề bình đẳng cơ hội ; và ba là bức tranh thực tế về chất lượng đào tạo của các trường, về tình trạng thất nghiệp , về sự tham gia cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục quốc tế  cũng như của nguồn nhân lực từ các nước trong khu vực khi hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN.
Ngân sách nhà nước tài trợ trực tiếp cho các trường hiện nay khó lòng tăng vì vậy cần tập trung vào việc cải thiện hiệu quả sử dụng nguồn ngân sách công thông qua xây dựng một cơ chế đánh giá chất lượng hoạt động của các trường thay vì chỉ dựa trên đầu vào.
Học phí sẽ phải tăng để đảm bảo chất lượng ở mức chấp nhận được, kèm theo mức hỗ trợ tương ứng bao gồm miễn giảm học phí, tín dụng và học bổng, nhưng điều cần lưu ý là chính sách học bổng phải được xây dựng một cách linh hoạt và khôn ngoan, bao gồm học bổng dựa trên thành tích lẫn học bổng theo nhu cầu cần được hỗ trợ. Nhà nước có chính sách hỗ trợ học phí, từng phần hoặc toàn bộ, cho những ngành học cần thiết cho sự phát triển bền vững của quốc gia nhưng thị trường không có động lực để đáp ứng nhằm khuyến khích người học và cân bằng nhu cầu về nguồn lực. Cùng với cơ chế này là chính sách bắt buộc tất cả các trường công cũng như tư dành ra một tỉ lệ nhất định trong tổng thu học phí để làm học bổng bao gồm nhiều loại khác nhau phù hợp với những đối tượng khác nhau.
Khuyến nghị thứ hai là chính sách tăng học phí phải gắn chặt với quá trình tăng cường trách nhiệm giải trình của các trường và công khai thông tin về mọi hoạt động của nhà trường, bao gồm những kế hoạch cải cách quản trị để mọi quyết định của nhà trường bao hàm được tiếng nói của các bên liên quan khác nhau. Làm sao các trường có thể thuyết phục được xã hội, nếu họ không có đủ năng lực biện minh cho những quyết định, hành động và kết quả công việc của mình?
Khuyến nghị thứ ba là tăng cường cạnh tranh thông qua mở rộng tự chủ trong việc xác định mức học phí tùy theo năng lực và uy tín của từng trường. Liệu Nhà nước có nên quy định mức trần học phí ở trường công hay không, là một câu hỏi khó trả lời, vì cả những lý lẽ ủng hộ lẫn phản bác đều mạnh mẽ. Chúng tôi cho rằng việc giao tự chủ xác định mức học phí cho nhà trường cần gắn chặt với một cơ chế hữu hiệu về trách nhiệm giải trình và công khai thông tin về nhà trường, như khuyến nghị của VED về đảm bảo chất lượng đã nêu ra. Nhà nước cần đặt các trường công cũng như tư vào một bối cảnh cạnh tranh, không chỉ cạnh tranh về uy tín, mà còn về chất lượng và giá cả, vì đó là động lực để cải thiện hiệu quả. Tất cả những việc nhà nước cần làm là đặt ra luật chơi để bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và công bằng.
Một vài kinh nghiệm quốc tế về xây dựng chính sách học phí
a) Học phí gắn với cơ chế khích lệ: Có chế độ miễn giảm đối với những sinh viên cam kết đạt được những mục tiêu nhất định và đạt được trong thực tế, ví dụ tốt nghiệp đúng hạn, không thi lại, v.v.
b) Học phí linh hoạt khác nhau cho các khóa cơ bản và nâng cao, các môn có tín chỉ và không tín chỉ, các lớp trực tiếp và trên mạng, các môn trong chuyên ngành và ngoài chuyên ngành, môn tối thiểu và môn tự chọn, v.v.
c) Học phí khác nhau cho từng khóa, nhưng giữ nguyên từ lúc sinh viên vào trường cho đến khi sinh viên tốt nghiệp. Điều này giúp sinh viên có thể lên kế hoạch chính xác cho chi phí học ĐH của mình, đồng thời nhà trường cũng có một mức độ linh hoạt cần thiết để đáp ứng nhu cầu và bù đắp giữa các ngành và các khóa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét