22 thg 12, 2014

về bài: Tiên Tử Động Trung Hửu Hoài Lưu Nguyễn

Tiên T Đng Trung Hu Hoài Lưu Nguyn của Đào Tiềm (365-427))
诗词正文编辑  (thi t chánh văn biên tp)  

仙子洞中有怀刘阮


Tiên T Đng Trung Hu Hoài Lưu Nguyn
不将清瑟理霓裳,
Bt tương thanh st lý nghê thưng
尘梦那知鹤梦长。
Trn mng na tri hc mng trưng
洞里有天春寂寂
Đng lý hu thiên xuân tch tch
无路月茫茫。
Nhân gian vô l nguyt mang mang
玉沙瑶草溪碧,
Ngc sa dao tho liên khê bích
流水桃花满涧
Lưu thy đào hoa mãn gin hương
灯零落尽,
Hiu l phong đăng linh lc tận
此生无处访刘郎
Th sanh vô x phóng lưu lang  

仙子洞中有怀刘阮(唐·曹唐)
  七言律诗 押阳韵  显示自动注释
不将清瑟理霓裳,尘梦那知鹤梦长。洞里有天春寂寂,人间无路月茫茫
玉沙瑶草连溪碧,流水桃花满涧香。晓露风灯零落尽,此生无处访刘郎
(Đào Tiềm do Trần hồng Thu họa)


Phân tích bài thơ "Tiên Tử Động Trung Hữu Hoài Lưu Nguyễn" của Đào Tiềm.
           (Nguyễn Cang)
Trong trang thơ tuyển chọn những bài hay, kỳ nầy tôi xin giớí thiệu cùng bạn đọc bài thơ của Đào Tiềm tựa là "Tiên Tử Động Trung Hữu Hoài Lưu Nguyễn".
    Giới thiệu tác giả: Đào Tiềm 陶潛 (365-427) người đất Tầm Dương, đời Tấn, tự là Uyên Minh 淵明. Có sách nói ông vào đời Tấn tên là Uyên Minh 淵明, tự là Nguyên Lượng 元亮, đến đời Tống (Nam Bắc triều) đổi tên thành Tiềm . Đời sau, do phạm huý với vua Cao Tổ đời Đường là Lý Uyên 李淵 nên người ta còn gọi ông là Đào Thâm Minh 陶深明 hay Đào Tuyền Minh 陶泉明. Có tác giả bảoTào Đường tự là Nguyên Tân, người Quế Châu tỉnh Quảng Tây , Trung Quốc. Ồng vốn là một đạo sĩ nên thơ văn của ông ẩn chứa một triết lý nhân sinh nhàn dật thoát tục lồng trong khung cảnh mộng ảo huyền bí hư thực lẫn lộn trong cảnh thần tiên thơ mộng nhưng lại êm đềm nhàn hạ của những người thích tu tiên. Nhưng lời thơ thì trong sáng , diễn  tả cuộc đời như giấc chiêm bao được/ mất: sinh trụ hoại diệt,Cuộc sống là hữu hạn , mong manh đừng lầy đó mà bận tâm lo lắng.Ông có tư tưởng "lạc thiên tri mệnh" đầy phong cách thanh tao.Ông chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Lão Trang. Ông để lại nhiều bài thơ,văn nổi tiếng được truyền tụng cho tới bây giờ, chứa trong hai tập Đại Du Tiên Thi và Tiểu Du Tiên Thi. Tập hợp những bài thơ Thiên Thai của Tào Đường gồm 5 bài thơ thuộc loại du tiên, mô tả cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa hai thanh niên trần thế với hai tiên nữ tuyệt đẹp tại động Hoa Đào.Ngoài ra ông còn để lại bài văn nổi tiếng là Qui Khứ Lai Từ ( hãy về đi thôi).
     Xuất xứ câu chuyện: Sau khi Lưu Thần- Nguyễn Triệu lạc vào động Thiên Thai thì hai chàng trai được hai cô gái thật xinh đẹp là Ngọc Kiều và Giáng Tiên tiếp đãi nồng hậu. Sau đó hai chàng kết hôn vời hai nàng sống đời hạnh phúc.Được hơn nửa năm ( có sách nói 2 năm) thì hai chàng vì nhớ nhà quá nên xin vợ cho trở lại trần gian thăm quê. Hai nàng đành chìu lòng để người yêu ra đi. Từ đó hai nàng tiên buồn vời vợi, biếng ăn bỏ ngủ, ngày ngày ra cửa ngóng trông chồng về..
  
     Phân tích nội dung:
 
     Đây là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, luật bằng vần bằng, tác giả ở thời Vãn Đường,.

  Tiên tử động trung hữu hoài Lưu Nguyễn 仙子洞中有懷劉阮 • Tiên nữ trong động nhớ Lưu Nguyễn
Nguyên tác chữ Hán:

仙子洞中有懷劉阮

    ( 陶潛)

Âm Hán Việt:

Tiên tử động trung hữu hoài Lưu Nguyễn
Bất tương thanh sắt lý "Nghê thường",
Trần mộng na tri hạc mộng trường.
Động lý hữu thiên xuân tịch tịch,
Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang.
Ngọc sa dao thảo liên khê bích,
Lưu thủy đào hoa mãn giản hương.
Hiểu lộ phong đăng linh lạc tận,
Thử sinh vô xứ vấn Lưu lang!
      
      (Đào Tiềm)
Dịch xuôi:     (Nguyễn Cang)
            Tiên trong động nhớ Lưu Nguyễn

Không ai đem đàn sắt nhẹ ra gảy khúc Nghê Thường.
Người trong mộng trần ai đâu có biết được mộng tiên là dài.
Trong động có riêng một bầu trời, cảnh xuân vắng lặng.
Đường về nhân gian không còn nữa ( mất dấu), trăng sáng mênh mông.
Trên bãi cát ngọc cỏ tiên xanh biếc moc ven khe suối.
Hoa đào rơi trên dòng nưởc chảy, toả hương thơm ngát khắp suối.
Sương móc ban mai, đèn trước gió, dễ tan dễ tắt.
Kiếp nầy không biết nơi nào để hỏi tìm ra được chàng Lưu.
    
       (Đào Tiềm)

Chú thích từ ngữ:
有懷 (hữu hoài): nhớ ai
(tịch tịch): yên lặng, vắng lặng

    Trong động hoa đào cũng có khung trời riêng thơ mộng nhưng nay người đã đi rồi thì cảnh xuân cũng quạnh quẻ buồn tênh.Thật là đúng với tâm trạng :" người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" (Kiều).Bước ra khỏi động thấy trời xanh bát ngát, lối xưa giờ đã mất dấu còn gì nữa mà mong hai chàng trở lại.Đêm xuống trăng sáng lung linh,con người trở nên nhỏ bé trong cái mênh mông của vũ trụ, buồn thê thiết:
Động lý hữu thiên xuân tịch tịch,
Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang.
    Bây giờ là màu xuân, bên ngoài dọc theo bờ suối có bãi cát ngọc, cỏ tiên mọc xanh biếc chạy dài xa tít.Hoa đào rơi trên dòng nước,hương thơm tỏa ngát cả một vùng:
Ngọc sa dao thảo liên khê bích,
Lưu thủy đào hoa mãn giản hương
    Nghĩ tới thân phận bọt bèo của kiếp nhân sinh, hai nàng ví mình như ngọn đèn trước gió, như sương sớm ban mai, đèn dễ tắt và sương  dễ tan mà ngao ngán cho kiếp con người.Chạnh lòng nhớ người yêu, hai nàng cất tiếng than não nề : Kiếp nầy có ai chỉ dùm tôi để biết được giờ hai chàng Lưu Nguyễn giờ ở nơi đâu?

Hiểu lộ phong đăng linh lạc tận
Thử sinh vô xứ vấn Lưu lang!

    Bài thơ  56 chữ được tác  giả chọn lọc rất kỹ những từ  thích hợp sít sao, đọc lên nghe gợi hình ảnh và cảm súc như từ "tịch tịch" là sự vắng lặng trong nỗi cô đơn, gợi thêm cái buồn ảo não. Từ "Mang mang" chỉ sự mênh mông bát ngát của không gian vô tận, mà cảm thấy thân mình bé nhỏ,mong manh dễ vỡ.
Phép đối cũng được tác giả sử dụng khá chỉnh khiến bài thơ trở nên xúc tích , linh động:
 Trong hai câu thực, từ ngữ : "Động lý hữu thiên" đối với "nhân gian vô lộ"; "xuân tịch tịch" đối với "nguyệt mang mang" :( rất chỉnh về thanh ,ý, từ loại).
 Trong hai câu luận , từ ngữ "ngọc sa dao thảo" đối với "lưu thủy đào hoa" ; "liên khê bích" đối với "mãn giản hương" :( chỉnh về thanh ,ý, từ loại).
Trong thơ còn dùng hình ảnh mùa xuân có hoa đào nở, nó chiếm một chỗ rất đặc biệt trong nền văn học Trung Quốc, hầu hết những bài thơ Đường hay đều chứa cảnh mùa xuân hoa đào nở rộ ngoài hiên cửa , trong vườn, trên lối đi mòn, hoặc hoa lá rơi lả tả theo từng cơn gió nhẹ v.v.trong những bài thơ hay đó ta phải kể tới bài "Đề  Đô Thành Nam Trang"
(題都城南莊) của Thôi Hộ (618-907):


題都城南莊
Đề đô thành nam trang  (Thơ đề ở ấp phía nam đô thành)
Khứ niên kim nhật thử môn trung,
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu xuân phong.
Dịch nghĩa
Năm trước ngày này ngay cửa này,
Mặt người, hoa đào ánh hồng lẫn nhau.
Mặt người chẳng biết đã đi đâu,
Vẫn hoa đào năm ngoái đang cười giỡn với gió xuân.
    
         (bản dịch: khuyết danh)

    Bài thơ "Tiên Tử Động Trung Hữu Hoài Lưu Nguyễn", tác giả nói lên khát vọng tình yêu của tuổi trẻ dầu đó là tiên hay người trần tục, họ cũng biết yêu, cũng muốn sống đời hạnh phúc bên người mình yêu dầu chồng mình là người trần gian và mình là tiên nữ.Tiên/ trần có kết hợp được lâu bền hay không? Trong thực tế là không, tác giả tạo ra sự chia cắt bằng lý do là:chàng nhớ nhà đòi về thăm quê.Về tới chốn cũ, nhà xưa không còn, muốn trở lại mà đường đi đã mất dấu thì mong gí xum hợp? Đọc tới đây mọi người như ứa lệ thương dùm cho tiên nữ, cuộc đời của tiên sao quá đắng cay, nghiệt ngã? Điêu nầy cho thấy kiếp người thật mong manh, bấp bênh, được mất chỉ trong chốc lát,sinh trụ hoại diệt là lẽ tất nhiên mà tác giả đã khéo léo báo trước kết cuộc bi ai cho cuộc tình ngang trái đầy nươc mắt bằng hình ảnh của ngon đèn trước gió hay sương mai trước giông bão của cuộc đời: "Hiểu lộ phong đăng linh lạc tận "Đời là mộng ảo, vinh hoa phú quý tựa chiêm bao, có khi biến mất bất ngờ còn lại hai bàn tay trắng mà cuộc sống thì hòa quyện thực hư, có lúc tưởng mộng là thực đến khi thức giấc mới ngỡ ngàng chán nản. Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều có câu:
"Giấc mộng Nam Kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không."
  Và trong cổ thi cũng có câu "Trăm năm một giấc kê vàng".
để nói lên ý nghĩa của cuộc đời mộng ảo mong manh. Thương thay!!!

Dịch bằng thơ:

Tiên Nữ Trong Động Nhớ Lưu Nguyễn

Bản dịch 1/.
Nhạc khúc Nghê Thường chẳng gảy đâu
Trần gian sao biết mộng tiên lâu?
Góc  riêng trong động  trời xuân  vắng
Mất nẽo dương trần  nguyệt khuất xa
Cát ngọc cỏ tiên  khe  nước biếc
Hoa đào ven suối  ngát thơm mầu
Sương mai  đèn lụn  mong manh kiếp
Xin  hỏi chàng Lưu biết ở đâu?

        (Nguyễn Cang)

Bài hoạ của Khôi Nguyên:

      Lưu Nguyễn Lạc Động Đào

Tiên Tục lấy nhau, chuyện lạ thường,
Thế mà chăn gối hai năm trường.
Tình yêu cắt đứt, lòng còn nhớ,
Hạnh phúc dứt rồi, nghĩa vẫn mang
Thơ thẩn rừng cây như biến sắc,
Dật dờ Đào Động cũng phai hương.
Lối xưa mất dấu là duyên hết,
Số đã định rồi, hởi bạn lang...!
              Khôi Nguyên

Bản dịch 2/.
Ngón đàn biếng lựa khúc Nghê Thường
Ai biết hồn ai những vấn vương
Trời khoá non tiên xuân quạnh quẽ
Đường đi cõi tục nguyệt mơ màng
Cỏ dao cát ngọc liền khe biếc
Nước chảy hoa đào ngát suối hương
Đèn gió sương mai ngao ngán nhẽ
Kiếp này không chốn hỏi Lưu Lang?

   (Bản dịch của K.D)
Bản dịch 3/.
Gãy khúc nghê thường chẳng có ai
Mộng trần đâu biết mộng tiên dài
Trời riêng góc động xuân yên ắng
Nẽo khuất dương trần nguyệt úa phai
Khe thắm cỏ tiên vờn cát ngọc
Suối thơm đào ngát nước xanh trôi
Mỏng manh sương sớm đèn trong gió
Muốn gặp chàng Lưu biết hỏi ai ?


      (Hải Đà 







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét