Chữ nghĩa làng văn
**
Chất phác
“Phác” là cây gỗ mộc.
“Chất“ nghĩa bản chất.
(Ngô Nhân Dụng – Phiếm khảo)
Chuốc chuốc
Ở nước ta, có một thứ chim cứ đến mùa hè kêu cả đêm rồi chết rạc, người Bắc gọi là chim cuốc. Người Trung gọi là chuốc chuốc.
(Tôn Thất Lương – Xuân Mộng)
Lầu xanh, lầu hồng
Sau này lầu hồng cũng bị trở thành maison des chanteuses (nhà chứa con hát), và sau cùng là "nhà chứa đĩ."
Nhà chứa đĩ thời Tây được gọi là nhà đỏ, nhà thổ. Chữ "thổ" không phải là chữ Hán, chữ Việt. Thổ là âm của tiếng Pháp tolérance (cũng như chữ "thổ mộ" là âm của tombereau). Nhà thổ tức là maison de tolérance (nhà chứa đĩ) của Pháp.
Xã hội ta thích ứng thật nhanh chóng với mọi hoàn cảnh!
Vị
Xuyên có Tú Xương
Dở dở lại ương ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại
chơi lường.
Tú Xương đã nắm bắt được chuyển biến của xã hội đương thời, đưa một dịch vụ ăn khách là thổ đĩ vào văn học.
(Xướng ca vô loài – Nguyễn Dư)
Bạn vong niên
Câu này bị hiểu lầm là bạn thâm căn cố đế, tức “bạn lâu đời”.
Nhưng chữ “vong” đây nghĩa là “quên”. “Bạn vong niên” chơi với nhau hiểu là “bạn bè chơi với nhau không kể tuổi tác, lớn bé”.
Hãy quên đi tuổi tác của nhau”.
Duy Lý – báo Tự Do)
Ao nghiên ruộng chữ: người trăm năm cũ
Thể lọai “Tiểu thuyết hư cấu lịch sử”
Con đuờng thiên lý – Nguyễn Hiến Lê - 1
Nguyễn Hiến Lê (1912–1984) quê ở huyện Ba Vì, phủ Quảng Oai, Sơn Tây. Ông Xuất thân từ một gia đình nhà Nho, học tại trường Bưởi.Hà Nội. Năm 1934, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính rồi vào làm việc tại các tỉnh miền tây miền Nam
Năm 1945, ông thôi làm, đi dạy học ở Long Xuyên. Năm 1952 chuyển lên Sài Gòn mở nhà xuất bản và biên dịch sách, sáng tác nhiều lĩnh vực khác nhau như ngữ học, triết học, lịch sử, du ký. Có thể vì ông lưu lạc ở các tỉnh miền tây, với lịch sử, du ký nên ông viết truyện miền Viễn Tây chăng?
“…Ông Trần Trọng Khiêm, quê ở Định Tường từ năm 1855, đời vua Tự Đức (cùng đời vua với Bùi Viện). Năm 20 tuổi, vợ ông bị viên chánh tổng cưỡng hiếp rồi bức tử nên ông giết viên chánh tổng. Và cũng như Bùi Viện, ông theo tàu buôn sang Hương Cảng rồi qua Mỹ năm 1849.
Cuối cùng sang tận Mỹ quốc theo một đòan tìm vàng về Miền Viễn Tây, ông đổi tên là Kim Lee (sách La Ruée Vers L’or viết chuyện Kim Lee), chuyện đi tìm vàng đầy hiểm nguy gian khổ, đánh nhau với mọi da đỏ và tới San Francisco. Đến thị trấn mới, Lee Kim được thuê làm cho tờ Daily Evening, ông có hai bài báo viết cho tờ Daily Evening nay còn lưu giữ ở thư viện San Francisco (báo đề ngày 19-2-1850 và ngày 8-11-1853) .
Họ Mạc đổi họ
Năm 1600, Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long, bắt được Mạc Hậu Hợp treo sống 3 ngày mới đem xử trảm, lấy đinh đóng vào hai mắt, rồi đem thủ cấp nộp cho vua Lê.
Dòng họ Mạc quá sợ hãi phải chạy trốn để khỏi bị trừ khử, phải đổi họ bằng cách “khử túc bất khử thủ” là lấy họ khác ghi thêm “bộ thảo” trên đầu để dánh dấu nhận ra nhau.
Từ một họ Mạc đổi ra 37 họ khác bằng cách “khử túc bất khử thủ” là lấy họ khác ghi thêm “bộ thảo” trên đầu để dánh dấu nhận ra nhau như họ Bùi, Hoàng, Lê, Nguyễn, Phạm, Phan, Vũ….Phụ thêm đổi theo họ mẹ hay bố nuôi, cho đến nay họ Mạc có hơn 200 hệ, chi, phái (như họ Cao, Đào, Đình, Đoàn, Phúc, Thái, Tô…).
Ao nghiên ruộng chữ: người trăm năm cũ
Thể lọai “Tiểu thuyết hư cấu lịch sử”
Con đuờng thiên lý – Nguyễn Hiến Lê - 2
Sau ông trở về làng Hòa An, Định Tường, lập gia đình và có hai con. (Lê Xuân Lưu cháu nội Kim Lee cung cấp tài liệu cho Nguyễn Hiến Lê viết truyện “Con đường thiên lý”). Như vậy Kim Le đã đến Mỹ (1849) trước Bùi Viện 24 năm. Vì theo nhà biên khảo Thái Văn Kiểm dựa vào chuyện của Phan Trần Chúc viết truyện Bùi Viện nhận lệnh Tự Ðức qua Hồng Kông tới San Francisco, được Tổng thống "Simpson Grant" tiếp kiến vào khỏang năm 1873.
Thế nhưng có hai chuyện: Một là tác giả Trần Giao Thủy (*) viết bài biên khảo với những chi tiết thời gian mâu thuẫn nên chuyện của Phan Trần Chúc là…hòan tòan hư cấu. Vậy mà qua hai kỳ hiệu đính bài viết của mình, ông Thái Văn Kiểm vẫn im lặng.
Hai là khác với ông Thái Văn Kiểm, trong Đời viết văn của tôi, ông Nguyễn Hiến Lê thổ lộ:
“…Tôi dùng hồi ký (viết tại Long Xuyên, ngày 12-9-1980) của tôi về cuộc tìm vàng ở miền Tây nước Mỹ giữa thế kỷ trước để tạo ra nhân vật không có thật là Lê Kim. Để dựng lên chuyện không có thật về người Việt đầu tiên trôi nổi qua Mỹ, theo một đoàn tìm vàng. Khi tìm được rồi thì chán. Chán rồi thì trở về Nam Việt lập gia đình, khai hoang trong Đồng Tháp Mười…”.
(*) (về tác giả Trần Giao Thủy, xem tr 17)
Con đường Dương Nghiễm Mậu
Những người lên đường làm mới văn học nói trên, đến nay tuy đã mấy chục năm, nhưng với phần lớn tôi đều giữ được những kỷ niệm về lần đầu gặp mặt. Kỷ niệm với mỗi người mỗi khác. Thanh Tâm Tuyền, căn gác xép ám khói ở toà soạn Dân Chủ, hắn hỏi xin một điếu thuốc và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ.
Nguyên Sa cái mũ trắng thầy giáo, lần đầu tới Sáng Tạo, gọi tôi vào phòng trong dậy một điệu nhảy swing. Cái áo thun cũ, cái quần sà lỏn của Doãn Quốc Sĩ, bữa ăn trưa đãi tôi ở Đại Học Xá. Cung Trầm Tưởng, cái cà-vạt đỏ chói, tóc đỏm dáng từng sợi. Viên Linh mặt mày cau có giận dữ vì đến đưa thơ tôi còn ngủ vùi, cửa toà báo treo tấm biển đi vắng. Trần Thanh Hiệp không nhìn lên, vùi đầu vào cuốn tự điển to gấp hai người Hiệp. Quách Thoại, cái anh chàng ngất ngưởng ở tiệm ăn Thanh Thế, lần gặp đầu đã tự nhận là vua thơ một thời.
Nhưng kỷ niệm về lần thấy đầu, với Dương Nghiễm Mậu là vô tình và lý thú nhất, sau này kể chuyện lại, anh em cười lớn với nhau.
Nhớ đó là một buổi trưa rảnh rỗi, tôi ghé thăm Trần Phong Giao. Bạn đang cắm cúi làm việc. Tôi kéo ghế ngồi hút thuốc lá, thấy ở cạnh mình một cái sọt rác đựng đầy những bản thảo gởi đăng không đăng và liệng bỏ đi. Buồn tay tôi nhặt những tờ bản thảo bị xé bỏ ấy lên coi. Cuối cùng và ở tận đáy cái sọt rác ấy là một bản thảo truyện ngắn. Tôi đọc mấy dòng đầu, giật mình vì lối vào truyện mạnh dạn, mới lạ, khác biệt hẳn với lối vào truyện vòng vo ngập ngừng thường thấy ở những người viết mới.
Đọc tiếp mấy trang nữa; tôi hỏi Trần Phong Giao: "Bỏ đi tất cả đây à?" Bạn không ngửng đầu lên: "Ừ, đã đọc rồi bỏ không đăng" - "Moi lấy đi được không?" - "Để làm gì vậy?", Trần Phong Giao ngạc nhiên hỏi. "Mặc moi" tôi nói, và cất cẩn thận cái truyện ngắn bị vất bỏ ở một diễn đàn bạn vào túi áo, trở về đăng ngay nó và nguyên văn không sửa một cái dấu phẩy trên tờ Sáng Tạo số đang làm. Bạn tôi, chỉ thấy giá trị những tác giả đã thành danh, không thấy những hạt ngọc lóng lánh lăn ra từ những cõi viết còn vô danh chưa tên tuổi đã liệng đi cái hạt ngọc văn xuôi ấy là truyện ngắn Rượu chưa đủ, truyện đầu tay của một người trẻ tuổi mới viết văn bấy giờ là Dương Nghiễm Mậu. Hạt ngọc bị vất bỏ ấy và tôi đã tình cờ lượm được, đúng là một hạt ngọc. Bao năm rồi không đọc lại tôi chẳng thể nhớ hết từng chi tiết của truyện chỉ nhớ cái chàng nào đó với bút hiệu Dương Nghiễm Mậu đã có ở Rượu chưa đủ một đoạn văn kết thúc tuyệt hay.
Đoạn văn tả người anh đến đón em ở viện mồ côi. Hai anh em đi lang thang một ngày trong thành phố, không có một đồng xu nhỏ. Buổi chiều, trước khi đưa em trở về viện, người anh dẫn em vào một công viên, yên lặng lấy đất đắp thành những mô hình sông núi quê hương, thầm nghĩ hai anh em trơ trọi giữa đời, thôi bầy trò chơi đắp hình, sông núi với em, để có được cùng em, dù một cách rất tội nghiệp buồn rầu, một ý niệm về điểm tựa, về nguồn gốc. Thật là chửng chạc và cũng thật là cảm động.
Đó là truyện ngắn thứ nhất của Dương Nghiễm Mậu.
(Mai Thảo)
Bên lề chữ nghĩa
Hà Nội những điều nhỏ bé bạn nên làm khi…”quởn”
Ăn hết phố ăn vặt ở ngõ Đồng Xuân
(nguồn: Tôi đi đâu)
Người vợ của Bùi Giáng - 1
“Bỏ qua chuyện cũ” là chuyện gì? Đó là một chuyện hết sức tức cười và trẻ con. Ông Bùi Luân tiết lộ: “Cô con dâu đứng bên bà mẹ chồng sụt sùi: Anh cho con ăn toàn khoai lang và rau luộc. Anh không cho con mua cá mua thịt…”. Thì ra, Bùi Giáng…ăn chay. Ông chỉ thuận cho cô vợ ăn rau cải, củ quả mà không cho phép bà ăn gà, bò - hai món thịt ngon nhất của ở Trung Phước.
Người vợ qua đời năm 1948 khi Bùi Giáng vắng nhà. Ông Bùi Luân viết tiếp: “Phút lâm chung, chị không thấy mặt chồng… Tôi chỉ biết là anh có mặt vào phút chót của buổi tiễn đưa chị về nơi an nghỉ cuối cùng - anh đứng bên cạnh chiếc quan tài với vành khăn trắng trên đầu”.
Bùi Giáng yêu vợ nhưng vẫn muốn…bỏ nhà đi chơi. Cũng bình thường như bao nhiêu người đàn ông Quảng Nam lãng mạn khi xa vợ. Thế nhưng, tình yêu và nỗi xót xa dành cho người vợ ở quê nhà thì rất đỗi mặn mà, vô cùng tha thiết:
Mình ơi, tôi gọi bằng nhà
Nhà ơi, tôi gọi mình là nhà tôi
(Vũ Đức Sao Biển)
Đừng tưởng
Đừng tưởng cứ khóc là sầu..
Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng
(Bùi Giáng)
Người vợ của Bùi Giáng - 2
Hai năm sau cái chết của người vợ trẻ, ông dẫn một bầy dê lên Nông Sơn chăn thả, ngao du qua những đồi núi, suối khe mơ màng để nhớ thương vợ. Hai năm sau đó nữa, ông gửi bầy dê lại cho… chuồn chuồn và châu chấu, bỏ quê nhà đi chơi tiếp. Ở đâu, ông cũng phục hiện những hình ảnh yêu dấu xưa. Bài thơ nhớ vợ có một không khí rất đỗi bi ai, tràn đầy hoài cảm:
Nhớ vợ
“Em chết bên
bờ lúa.
Để lại trên lối mòn.
Một dấu chân bước của.
Một bàn chân bé con!
Anh qua trời cao nguyên.
Nhìn mây buồn bữa nọ.
Gió cuồng mưa khóc điên.
Trăng cuồng khuya trốn gió.
Mười năm sau xuống ruộng.
Đếm lại lúa bờ liền.
Máu trong mình mòn ruỗng.
Xương trong mình rả riêng.
Anh đi về đô hội.
Ngắm phố thị mơ màng.
Anh vùi thân trong tội lỗi.
Chợt đêm nào, gió bờ nọ bay sang”.
Bùi Giáng bỏ cố quận ra đi biền biệt. Ra đi nhưng ông vẫn nhớ, đến tha thiết não nùng. Lắm khi ở phương xa, ông nhớ cố quận. Qua mấy mươi năm, hình ảnh người vợ trẻ, hiền ngoan ấy vẫn sống trong lòng ông. Ông uống trà giữa Sài Gòn mà hình ảnh của bà ngày xưa ở Quảng Nam như hiển hiện trước mắt:
Trung niên thi sĩ uống trà.
Thưa em mọi nhỏ, em đà uống chưa
(Vũ Đức Sao Biển)
Vũ Huyến
Biến cố 75 đẩy Vũ Huyến với tôi gần nhau hơn nữa. Chúng tôi cùng nằm chung một chiếu, ở chung một lều/phòng, ăn chung một bàn, đi chung một tầu biển, một máy bay từ Sài Gòn ra Phú Quốc, đến Tent City ở Guam, đến IndianTown Gap ở Pennsylvania.
Tôi có người anh ruột tên là Lê Báu, cố chuẩn úy - tử trận năm 1966. Hồi còn là học sinh, Báu thích hát bài Cô Hàng Nước của Vũ Minh. Sau này tôi mới biết là Vũ Huyến viết bài này khoảng thập niên 50 và ghép họ mình và tên người vợ lúc đó là ca sĩ Minh Hoan làm tác giả bài hát. Ở trong trại tị nạn, Vũ Huyến cầm cây đàn ghi ta đi mượn lên rồi bắt đầu viết nhạc lại sau ít nhất là 20 năm từ Cô Hàng Nước.
Những bản nhạc anh sáng tác trong trại làm tôi gần anh nhiều hơn. Có lẽ bài tôi thích nhất là “Tiếng Sầu”, Đời người có mấy lần vui Hay đời người đầy những ngậm ngùi u sầu… được thâu bằng máy cassette trong một căn phòng ở barracks, chăn len treo trên tường để tạo nên accoustic effect, với tiếng hát Tuyết Hằng và tiếng đàn Tây Ban Cầm của nhạc sĩ Lê Gia Thầm. Vũ Huyến viết được khoảng 10-12 bài. Tầu đã chặt dây, rẽ sóng ra khơi, biệt ly từ đây, quê hương còn đấy, nhưng bao giờ quay về…v…v…
Vũ Huyến ở với gia dình tôi tại Virginia Beach một thời gian rồi sang California, ở San Francisco, rồi xuống Los Angeles, hợp với nhạc sĩ dương cầm Hồ Xuân Mai. Ban ngày anh đi làm ở USCC với các anh Jo Marcel, Lê Quỳnh, Nam Lộc, Ngô Văn Quy và chị Kiều Chinh. Một thời gian sau đó, ban AVT hải ngoại được tái thành hình với Vũ Huyến, Lữ Liên và Ngọc Bích.
Ngày 3 tháng 11, Vũ Huyến từ trần tại Glendale. Lễ an táng cử hành vào ngày 7-11-1995 tại San Fernando Valley California. Rất nhiều nghệ sĩ đến dự tang lễ của anh.
(Lê Tuấn)
Chữ nghĩa làng văn
Nếu muốn viết một cuốn sách hay anh phải thật sự vô tư với chính anh và đừng chiều theo đám đông độc giả kia. Anh phải tạo dựng cho độc giả cái mà họ phải đọc chứ không phải chỉ mang đến cho họ cái mà họ muốn đọc.
Đó là hai công việc hoàn toàn khác nhau.
(Nguyễn Hưng Quốc)
Thú đau thương không còn nữa – Dương Kiền
Ngày 17-11-2015. Lòng đau đem lại cái tin cuối mùa. Tin buồn Phùng Nguyễn Da Màu ra đi còn đậm dư âm, lại thêm tin buồn Dương Kiền Thú đau thương ra đi tiếp nối.
Dương Kiền là bạn của anh tôi, nhà khảo luận - phê bình văn học Nguyễn Nhật Duật. Ông viết những gì quả thật tôi không nhớ rõ, nhưng tôi biết Dương Kiền không phải cây bút loại thường. Thú đau thương, một thi tập hay một tác phẩm kịch thơ, nhiều người nhắc nhớ mỗi khi nhắc nhớ Dương Kiền. Ông xuất hiện thường xuyên trên tạp chí Văn Học ở Sài Gòn một thời, và trợ giúp tờ báo này gần như vai trò một chủ bút. Ông là biện lý hay thẩm phán tại Tòa án quân sự ở Nha Trang, trước 30 tháng tư, 1975.
Tuy nhiên tôi biết về ông rất nhiều, tôi là bạn cùng khóa 2/69 Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức với em ông, Dương Phục. Ra trường, Dương Phục làm phóng viên tại Đài phát thanh quân đội. Tôi lặn lội khắp chiến trường Vùng 1 chiến thuật, cuối cùng về Phòng văn nghệ, sát bên Đài phát thanh quân đội,.Dương Phục và tôi lại gặp nhau hằng ngày, tôi biết tin về Dương Kiền gián cách, qua Dương Phục. Tôi thấy rõ như sờ nắm được, Dương Kiền và Thú Đau Thương là một, là gắn kết hữu cơ.
Đấy là gương mặt một thi sĩ mà tôi có thể tưởng tượng. Đấy là lần duy nhất tôi gặp ông ở quán cà-phê Hồng trên đường Pasteur, đối diện Viện Pasteur - Sài Gòn. Ông ngồi trầm lặng, bàn tay nắm ly cà-phê đá; tôi nhớ hoạ phẩm Portrait de Poète Sabartés của Picasso, tôi gọi ông là thi sĩ từ lúc đó.
(Nguyễn Đạt)
Chữ nghĩa làng văn
Ða phần phê bình tác phẩm hoặc dựa trên cảm tính, hoặc viết về tác giả, hoặc bàn chuyện ngoài lề hơn là đi sâu vào văn bản.
Riêng với tác phẩm của tôi, độc giả chê hoặc khen đều cực đoan. Nghĩa là ai thích rất thích hoặc ai ghét rất ghét, không ở lưng chừng. Những tác phẩm của tôi đa phần được giới phê bình quan tâm. Một số độc giả cho biết tác phẩm của tôi khó hiểu, muốn hiểu được thì phải đọc kỹ 2-3 lần, mỗi lần đọc lại khám phá ra điều thú vị và mới mẻ.
Một số khác nhận xét tôi viết táo bạo quá! Thật ra, khi viết bao giờ tôi cũng cố gắng với cao, vượt lên trên khả năng, sức lực của tôi rất nhiều. Vì thế người đọc cũng phải với lên để thưởng ngoạn tác phẩm của tôi. Tôi viết không phải để làm vừa lòng độc giả.
(Lê Thị Thẩm Vấn)
Nói lái trong nước
Các cô thích anh…chàng ngông
Không thích anh…chồng ngang.
Đoàn Kế Tường & Đoàn Thạch Hãn
Nhà xuất bản Người Việt giới thiệu tập Ký (xuất bản năm 2018) của Đinh Anh Quang Thái “như nén hương lòng thắp tạ những nhân vật của một thời”: Hồ Hữu Tường, Nguyễn Tất Nhiên, Như Phong Lê Văn Tiến, Đỗ Ngọc Yến, Nguyễn Chí Thiện, Đoàn Kế Tường, v…v …Tôi quen (hoặc biết) tất cả những tên tuổi vừa kể, trừ Đoàn Kế Tường. Xem Ký Đinh Anh Quang Thái xong, tôi mới biết là mình hơi nông nỗi. Đoàn Kế Tường không chỉ viết văn, viết báo mà còn là một nhà thơ với nhiều tác phẩm đã xuất bản từ lâu ở miền Nam: Mùa Hoa Phượng (thơ, 1971), Ngày Dài Trên Quê Hương (ký, 1972) và Lòng Ta Lá Rụng Ven Đường (thơ, 1974)
Ông đã từng trải qua một kiếp nhân sinh với không ít nhọc nhằn, và lắm nỗi đắng cay:
Đoàn Kế Tường là một trong số tù nhân chính trị bị bắt sớm nhất, sau khi cộng sản chiếm miền Nam năm 1975. Anh bị bắt năm 1976, vì tham gia tổ chức phục quốc. Một tội nữa: Trước 75, từng viết nhiều bài phóng sự chiến trường ca ngợi quân đội VNCH.
(Tưởng Năng Tiến)
Nói lái trong nước
Đàn ông có người…trên răng dưới dế
và có người…trên dế dưới răng
Vũ Đức Sao Biển
Hai hình ảnh mà Vũ Đức Sao Biển yêu nhất có lẽ là ánh trăng và đồi sim. Nếu ánh trăng là nơi gieo vần cho những nhạc phẩm về phương Nam ngọt lành phù sa thì đồi sim lại gợi nhớ về Quảng Nam quê hương ông với mối tình lãng mạn tím màu thủy chung.
Thu, hát cho người là nhạc phẩm đầu tiên và để đời khi đưa tên tuổi Vũ Đức Sao Biển đến gần với công chúng. Năm 1968, nhạc sĩ tròn đôi mươi. Ông về lại đồi sim, ôm đàn nhìn xuống con sông Thu uốn quanh. Màu tím buồn ngập triền đồi, con sông lặng lờ trôi, một mối tình vô vọng... Dòng sông nào đưa người tình đi biền biệt/ Mùa thu nào cho người về thăm bến xưa/ Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ/ Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ…
Giai thoại về chuyện tình trong Thu, hát cho người hẳn nhiều người đã biết. Với nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển thì: “Đó là nhạc phẩm tôi viết cho mình, hát với mùa sim, tháp cổ, dòng sông. Thu ở đây là mùa thu, là dòng sông Thu. Nhưng cũng có thể hiểu đó là tên người con gái mà tôi gieo mối tình đơn phương thuở còn là cậu học trò trường Trung học Tiểu La, Thăng Bình”.
(Mai Quỳnh Nga)
Nhạc sĩ, nhà thơ, nhà báo
Vũ Đức Sao Biển
Thu hát cho người
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Còn nói, còn... tát
211 Chữ nghĩa làng văn xóm chữ
Khi Sài Gòn giải phóng - mười bốn năm trước đây, tôi đã được dịp trở lại vài tháng sau. Một hôm, tôi đến chơi nhà Nguyễn Điều - tức Tô Hà, bên Khánh Hội - một bạn nối khố của tôi từ khi để chỏm còn ở Nghĩa Đô. Vũ Bằng tới. Tình cờ có người mách anh biết tôi đến đây và tôi cũng chưa biết nhà anh ở đâu. Thì ra nhà anh ngoài bờ sông gần đấy, anh lồm cồm lên gác. Vẫn cái áo "tăng quát” và mũ phớt mua thu Hà Nội loà xoà như năm nào.
Bấy giờ chớm thu, mà người Sài Gòn năm ấy đồn rằng giải phóng đã đem cả cái lạnh ngoài kia vào. Mấy người quê Bắc chỉ đợi được mặc áo ấm, đã nói đùa hơi mát mẻ đôi chút.
Đứng trước mặt tôi là một người đã luống tuổi, tôi chỉ nhận ra mang máng cái dáng quen. Khuôn mặt, anh trễ tràng, võ vàng, không còn béo mập như trước.
Vũ Bằng nắm vai tôi một lúc thật lâu rồi mới thốt lên:
- Ô này, thật mày đấy a? Mày cứ chửi ông bơ sữa, vậy mà ông thì ốm thế này,
bịnh thế này...
Rồi chẳng đợi ai mời, anh cởi áo khoác ngồi vào mâm đánh chén. Vẫn tính xuề xoà
thế. Nhưng vừa bị một trận ốm nặng, đã phải bỏ rượu. Tối hôm sau, tôi đến nhà
anh. Nhà một tầng, hai buồng rỗng như đít bụt, chẳng có tủ có đài gì cả. Chị
hai đi họp tổ dân phố. Trẻ con thì chơi đâu ngoài bờ sông.
Vũ Bằng lại xuýt xoa khen tôi béo khoẻ. Cơ chừng có sự thèm muốn, sự ghét guổng
mà thích thú và sự lạ lùng nữa, ở anh. Vì cái thằng "uống nước lã cũng đã
say" bây giờ uống tốt, mà anh là cái hũ rượu thì phải kiêng. Tôi nói:
- Khó khăn thì nhiều đến độ không đếm được, nhưng lòng người yên tĩnh. Có lẽ
khoẻ nhờ thế, anh ạ.
- Chí phải. Ở cái đất loạn này, cứ nát óc ra hại người thật.
Tôi cười:
- Vả lại, những "Mười hai thương nhớ" nữa, còn gì là người!
Vũ Bằng nhếch miệng, mủm mỉm, bâng khuâng:
- Ừ còn gì. Ông cũng đọc đấy à!
Rồi anh trầm ngâm nhìn ra sông Khánh Hội trong bóng
trăng.
- Mấy năm nay tao yếu hẳn. Đã thiếu đói lại mới bị một chuyến kiết lỵ tưởng
chết, nhưng rồi chỉ ốm rộc người thôi. Chẳng phải chỉ có mười hai thương nhớ,
đã hơn hai mươi năm ở cái hẻm Mèo câu cá này, còn gì là người. Mày có thương
tao không?
(Vũ Bằng… trích trong “Chân dung văn học” của Tô Hoài)
Bóng đè
Hồi còn nhỏ, những đêm mất điện, nhà tôi thường thắp đèn dầu hỏa. Tôi thích thú nhìn bóng tôi in trên vách. Và giỡn đùa với bóng như một đứa bạn thiết. Tôi thường dùng đôi tay mình tạo hình các con thú: chó, rắn, thỏ...chuyển động và cắn nhau. Rồi phá lên cười nắc nẻ. Lúc ấy, má tôi hay bà tôi thường mắng: “Đừng giỡn bóng. Tối ngủ, bóng nó đè chết đó” Thế là tôi ngưng ngay trò chơi trong luyến tiếc lẫn sợ hãi muốn biết cảm giác bị bóng đè như thế nào.
Lớn lên, tôi bỗng đâm ra say mê với trò chơi chữ nghĩa. Có nhiều đêm, trong bóng tối, tôi lần mò giỡn chữ. Tôi nghịch ngợm. Đảo lộn, chồng chéo chữ này với chữ kia. Bẻ đầu, ngắt đít chữ nọ. Để tạo hình. Và quả nhiên, những đêm ấy, trong giấc ngủ, tôi bị những con chữ kéo đến bủa vây đè tôi đến ngộp thở.
(Về một nhà văn bị bóng đè)
Xuân Sách: viết chân dung
Tập Chân dung nhà văn gồm 100 chân dung nhà văn, nhà thơ được viết bằng thơ từ năm 1962 đến 1992 mới được in thành sách, tính đến nay đã gần 20 năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét