Truông Nứa
Thuyên Huy
(Để tặng chị tôi, xin trả thay cho một chút nợ nần mà tôi không trả được ở đời này)
1.
Nắng len nhẹ, từng giọt nhỏ lẻ loi rớt chập chững, xuyên màn sương mờ mờ từ phía bên kia con rạch ngang, chia đôi cái Truông Nứa mênh mông chằng chịt rễ. Sắp sửa cuối đông, nhất là từ hôm hai mươi ba Tháng Chạp, đưa ông Táo đi, trời chưa chịu bớt lạnh. Ngoại khoác thêm cái áo bà ba vừa đủ bạc màu nâu, cầm gào nhỏ làm bằng mo cau khô, đi ra sàn nước, nhìn qua nhìn lại hai mươi mấy chậu vạn thọ vàng hực bông, trồng trong mấy lon sửa bò xin từ tiệm bán cà phê trên chợ xã từ những ngày giữa Thu, định múc nước tưới nhưng lại thôi vì đất vẫn còn ướt đẫm hơi sương. Ngoại cúi người sắp cho nó ngay hàng thẳng lối dọc theo tấm vách đất bên hông nhà, miệng đếm từng chậu một. Đưa tay vuốt hờ mấy cọng tóc bạc trắng lòa xòa che trên vầng trán nhăn nheo, ngoại nhìn mông lung xa xa ngoài phía cuối truông không nói một lời. Nắng theo bóng ngoại nghiêng nghiêng ngã về phía tấm liếp cửa đan bằng lá dừa già. Ở ngoài vàm sông lớn đã có chút mặt trời lên.
Mới đó mà thằng Chuồng, cháu ngoại của bà đã bỏ nhà đi vào đầu mùa cấy gần ba năm rồi. Những ngày còn có nó, chiều nào cũng chạy lên chợ xã, sau khi đi chăn trâu cho ông sáu Khỏe về, đứng chờ tiệm cà phê ông ba Tý dọn dẹp đóng cửa, xin hết mấy cái lon sửa bò không, đem về rửa sạch phơi khô để ngoại trồng bông vạn thọ bán vào buổi chợ chiều ngày ba mươi. Năm nào cũng vậy, từ Bến Mương, hai bà cháu, trẻ háo hức đi sau, già kéo chiếc xe cút-kích làm bằng cái thùng tre đựng chừng hai chục chậu bông đi trước, băng con đường đất dọc theo tỉnh lộ, phía bên này rừng cao su, lên bán trên chợ xã chiều ba mươi Tết. Hai bà cháu dọn mấy chậu bông trên một khoảng đất nhỏ, dưới gốc cây trứng cá trước căn phố gạch của ai đó mà bà chưa có lần thấy mặt. Chợ nhỏ, buổi chiều nhưng cũng đông người mua kẻ bán cho nên năm nào hai bà cháu đều bán hết sạch bông. Nhờ đó tiền bán năm trước có dư đủ để may cho thằng Chuồng cái áo và chiếc quần cụt mới mặc ba ngày Tết mặc dù nó chẳng có đi đâu xa, cao lắm là theo mấy thằng bạn chăn trâu xin lên chợ xã, mang theo vài chục trả lương từ người chủ điền chủ trâu, đánh bài cào ăn hột vịt lộn hay chơi bầu cua cá cọp một hai ngày.
Ngoại là người bán bông vạn thọ duy nhất ở chợ xã chiều ba mươi từ ngày thằng Chuồng lên sáu tuổi. Chị Bền, mẹ nó, đứa con gái độc nhất của bà, lấy chồng làm ruộng thuê, năm tròn mười chín trên miệt Bến Kéo. Hai vợ chồng làm ăn cực nhọc nhưng không thấy gì khấm khá, vẫn thiếu trước hụt sau. Ngoại đau lòng nhưng bà đã nghèo cho nên không có gì để cho ngoài cái lưng già còng và dăm ba manh áo vá. Sau khi sinh ra thằng Chuồng, vợ chồng chị có bồng nó về thăm ngoại vài lần trong dịp cúng giỗ ông ngoại. Nhà trống trước trống sau nhưng hai mẹ con lần nào cũng ráng có cái tô bể kho thịt heo được bán rẻ vào cuối chợ chiều. Ở Bến Kéo không hơn hơn hai năm, vợ chồng chị Bền bồng bế nhau về tận Khiêm Hanh, Cầu Khởi quê chồng, đổi nghề đi bỏ lưới câu cá câu tôm.
Cuối mùa gặt, năm thằng Chuồng được năm tuổi, sau khi mãn tang chồng chết vì bị rắn độc cắn khi tát nước đìa trong một ngày mưa chưa tạnh hẳn, chị Bền dắt thằng Chuồng trở về Bến Mương sống với bà ngoại. Căn nhà giờ có thêm hai miệng ăn, túng thiếu nhưng ngoại cảm thấy có chút vui trong tuổi già. Thằng Chuồng tuy hơi đen đúa nhưng siêng năng dễ dạy, chịu khó quanh quẩn bên bà phụ chẻ củi tưới cây. Có một điều là nó không ham đi học, ở nhà cũng đem nó lên trường tiểu học xã, chỉ học lên tới lớp Tư rồi bỏ. Ngoại và mẹ nó cũng không ép uổng làm gì, cả nhà có ai học hành gì đâu, ngoại thì khỏi nói rồi, mẹ nó chị Bền may mà còn biết đọc biết viết chút đỉnh. Cho nên không ai than vản hay thắc mắc gì chuyện thằng Chuồng có học hay không. Bỏ học, Chuồng theo mấy đứa bạn con nhà nghèo cuối ấp, gần cầu Đá Hàng, vui vẻ với cái việc đi chăn trâu mướn cho ông Tám Khỏe, trên khoảng đồng cỏ chạy dọc theo Truông Nứa dầy đặc cây bần bên này con rạch chảy ra sông Vàm Cỏ Đông.
Chị Bền thì đi làm phụ tráng bánh tráng cho thiếm Ba Thắm, nhà ở đầu ấp, nằm bên cạnh đường lộ, có sân đất rộng hơn nguyên cái nhà của ngoại. Dù gì đi nữa thiếm với ngoại cũng là láng giềng, cũng chạy qua chạy lại thăm nhau mỗi khi tối lửa tắt đèn. Gia cảnh thiếm Ba tạm gọi là kha khá vì công việc buôn bán bánh tráng có thường xuyên trong năm và từ lâu lắm rồi. Thiếm biết chị Bền từ hồi còn nhỏ, thiếm lại ở góa không con cái, cho nên có chị giúp một tay thiếm cũng thấy vui và cũng là cách giúp gia đình ngoại có thêm chút đỉnh tiền xài, ngoài việc chạy vào chạy ra biếu ngoại mấy xấp bánh tráng nóng tươi như từ đó tới nay. Rảnh rỗi chị Bền dắt con đi bắt cua bắt còng trên mấy đám ruộng quanh ấp hay phụ cấy mướn nếu có ai đó kêu.
Cuối mùa cấy năm sau, chị Bền một lần nữa lấy chồng. Chị phải lòng anh thanh niên làm công việc bỏ mạ của đám người chuyên đi cấy mướn từ dưới miệt Gò Dầu Thượng lên. Cũng như lần trước không có mâm cau miếng trầu, cũng nồi nào úp vung nấy. Bên trai bà dì, bên gái bà ngoại, hai đàng gặp nhau trong cái nhà tranh vách đất thiếu trước hụt sau của ngoại, nói tiếng hỏi tiếng bằng lòng qua bữa cơm nghèo với cá rô kho ớt, tô canh bông súng, mấy cái bánh tráng đục màu vôi cuốn gỏi thịt chim mõ nhát của thiếm Ba Thắm đem qua, ba cây nhang thơm và ba chung rượu trắng trên bàn thờ ông ngoại. Chị Bền ở với ngoại thêm ít ngày, thôi không phụ thiếm Ba Thắm làm bánh tráng nữa. Thương tình cảnh mẹ con, thiếm Ba đã mua cho chị Bền mấy sấp vải tốt hai ba màu để có thêm áo quần mà mặc khi về Gò Dầu Thượng.
Hôm chồng lên rước về, chị Bền không đem thằng Chuồng theo mà để nó ở lại với ngoại như hai mẹ con đã bàn tính. Ngoại thương thân nó côi cút, sợ cảnh cha ghẻ con riêng và cũng còn người an ủi tuổi già, ra vô có nhau đỡ hiu quạnh nên khuyên chị Bền theo nhà chồng một mình, lúc nào rảnh thì về thăm. Phần chị thì thương con, không muốn nó thiếu mẹ nhưng ngặt cảnh tình cũng khó xử, thôi thì nghe lời ngoại rồi từ từ tính sau. Xế trưa thằng Chuồng theo ngoại đưa chị Bền và chồng mới ra ngoài đường lộ chờ đón xe lam về Gò Dầu Hạ. Nó ôm mẹ nó mà không khóc nhưng khi xe chạy khỏi ấp Bến Mương không xa, nó nắm tay ngoại khóc ròng làm ngoại không cầm được nước mắt. Hai ba cháu đứng nhìn theo khi chiếc xe lam khuất mất ở cuối dốc cầu Đá Hàn.
Ở lại với bà ngoại, thằng Chuồng vài hôm đầu còn buồn, ít nói hơn đôi chút nhưng sau rồi cũng nguôi ngoai. Nó thôi không hỏi han gì chị Bền nữa, tiếp tục đi chăn trâu mướn với đám bạn cũ trong ấp như trước đây. Dân trong ấp biết chuyện nên không ai đá động gì tới mẹ nó mỗi khi gặp nó đâu đó ngoài đường ngoài ngõ. Thằng Chuồng tuy còn nhỏ nhưng cũng biết tính, sáng nào cũng vậy, khi dẩn hai con trâu của ông Tám Khỏe ra đồng, nó đều mang theo hai cái đục tre mà ngoại đan từ lâu lắm rồi, để lúc trâu ăn xong ngủ, chạy đi bắt cua bắt còng, dưới bờ nước bùn dọc theo Truông Nứa khi nước ròng. Coi vậy mà chiều nào nó cũng mang về nhà đầy ắp cua còng, đôi khi có thêm vài con cá rô cá trê đen bóng.
Đầu Truông Nứa phía cuối ấp, cạnh bờ con rạch ngang dẫn ra nhánh sông cái, cách đường đất mòn không xa, có một chiếc xuồng ba lá cũ, nứt nẻ vài chỗ, không biết của ai và dân trong ấp cũng không ai nhận, cho nên nó đã trở thành vật sở hữu của đám con nít chăn trâu, trong đó có thằng Chuồng. Chiều chiều trước khi lùa trâu về, bọn nó ba bốn đứa thong thả cột trâu lại rồi kéo nhau lên xuồng, chèo lên chèo xuống hai bờ con rạch vui cười với sông với nước. Xong xuôi đâu đó, công việc của thằng Chuồng là kéo chiếc xuồng cột vào chỗ cũ, chờ mấy đứa kia lùa trâu đi ngang về ấp lại. Sau lần chị Bền về thăm con hôm Tết một mình không có chồng theo, thằng Chuồng lâu lâu lùa trâu về nhà chủ trễ hơn mấy đứa khác. Thằng Chuồng nói với đám bạn là ở lại kiếm bắt thêm mớ cá mớ cua cho ngoại chớ thật ra không đứa nào thấy nó làm gì. Mỗi lần như vậy, khi về ngang qua hông nhà ngoại, đám bạn thằng Chuồng, vừa la trâu vừa nói vọng vào là nó chưa về, từ trong bà chỉ trả lời ừ một tiếng gọn.
Một đêm, trời vừa nhá nhem tối, đầu mùa cấy năm sau, sau khi lùa hai con trâu của ông Tám Khỏe vào chuồng xong, thằng Chuồng la lớn cho bên trong nhà biết rồi băng qua đống rơm cao, quơ tay lấy gói quần áo quấn trong tờ giấy báo cũ mà nó đã giấu ở đó từ chiều hôm qua, ôm gói giấy vào ngực, thằng Chuồng đi thật lẹ, tắt ngang qua nhà ngoại. Nó quay nhìn ánh đèn dầu mờ bóng ngoại lần nữa, đưa tay quẹt chút nước mắt vừa ứa ra, rồi lặng lẽ bước đi trong màn đêm tỉnh mịch về hướng Truông Nứa. Thằng Chuồng bỏ Bến Mương năm vừa tròn mười tuổi và cũng từ ngày nó bỏ đi cho tới bây giờ không thấy chị Bền về thăm ngoại và con nữa. Chiếc xuồng ba lá vẫn nằm yên chỗ cũ, không thấy đám bạn nó đụng tới dù chiều nào cũng lùa trâu về ngang. Dân trong ấp Bến Mương, thương cho tuổi già của ngoại, lo lắng không biết bà có chịu đựng nổi tình cảnh đó không nhứt là trong cái đêm hay tin thằng Chuồng bỏ đi, ngoại đã ngất xỉu ngoài bờ đất đầu Truông trong lúc người ta túa nhau đốt đuốc chạy tìm. Thiếm Ba Thắm, ông Tám Khỏe cùng hai ba chú khác khiêng ngoại vào nhà, lấy dầu gió xanh con cọp, vừa thoa dầu vừa cầu Trời khẩn Phật, cho nên không sáng thì chiều, không người này cũng người kia, tạt ngang tạt vào hỏi ngoại vài tiếng. Chiều ba mươi năm đó, người ta không thấy ngoại lên chợ xã bán bông vạn thọ nữa, và cho đến nay, chỗ bà thường ngồi trước căn phố gạch có cây trứng cá, vẫn còn trống, không có ai dù có khi chợ cũng đông người.
2.
Ra Tết lâu rồi mà trời cũng còn hơi lạnh, giữa khuya mấy con chó của đám nhà bên cạnh sủa nhiều tiếng hơn ngày thường. Cây đèn dầu treo đầu giường chưa tắt, ngoại lầm bầm giờ này mà còn sủa ma cỏ gì nữa. Ngoại lửng thửng bước ra định gài lại tấm liếp cửa, nghe có tiếng người xì xào, chưa kịp hỏi ai thì thằng Chuồng đã lách vào trong. Hai bà cháu ôm nhau khóc sướt mướt, ngoại rờ thằng Chuồng từ đầu tới chân, nó vẫn ốm như ngày nào. Thẳng Chuồng thổi tắt đèn dường như sợ bên ngoài người ta thấy, bà cháu nói với nhau cái gì đó nhiều lắm rồi thằng Chuồng bỏ đi ra, cùng hai ba người lạ đứng chờ trong bóng đêm ngoài sân vội vả đi về hướng truông. Ngoại đứng bên liếp cửa nhìn theo, mắt già không thấy rõ gì hơn ngoài mấy cái bóng người mờ mờ đen, như bóng ma chập chờn lên xuống.
Ngoài Truông Nứa, sương sáng tan dần theo ánh mặt trời lên bên kia sông lớn. Nắng chập chững trải dài trên từng ngọn lá của mấy dây trầu mướt xanh gần chái bếp. Ngoại trở vào nhà lấy cái khăn quàng rằn, quấn che quanh đầu đi ra, sửa lại chiếc áo bà ba ngoài, rảo một vòng quanh các chậu bông vạn thọ rồi cúi xuống nhìn vào cái khạp lớn rọng cá để sát vách nhà, xế cái sàn nước, ba con cá lóc lớn vẫn bơi qua bơi lại như thường ngày. Ngoại hờ khép tấm liếp cửa lại, theo con đường đất mòn từ từ đi ra đường lộ. Hôm nay ngoại có hẹn gặp chú Tư Trưởng Ấp. Bà vừa đi vừa quay lại nhìn về phía Truông Nứa lần nữa, trong ánh mắt đầy vui mừng bà mĩm cười, một nụ cười trọn vẹn mà chưa ai thấy lần nào, từ sau ngày thằng Chuồng bỏ đi.
Từ Gò Dầu về, chiếc xe lam chạy vào ngừng ngay trong sân nhà thiếm Ba Thắm, chú Tư Trưởng Ấp xuống trước, ngoại tay dắt thằng Chuồng theo sau. Thiếm Ba lăng xăng gọi lớn, con nít, người lớn mấy nhà chung quanh chạy ùa ra, ai nấy vui mừng, thằng Chuồng về thằng Chuồng về rồi. Thiếm Ba Thắm giựt thằng Chuồng ra khỏi tay ngoại, ôm nó vào người rưng rưng từng tiếng một, con ơi con ơi.
Chiều ba mươi Tết năm nay, dân trong làng trong xã lại thấy hai bà cháu, người trước người sau, đẩy xe bông vạn thọ lên chợ xã bán như những năm trước đây, nói nói cười bên đường lộ. Ở phía bên này ấp, đầu Truông Nứa, chiếc xuồng ba lá cũng không còn ở đó, đám bạn chăn trâu đã cắt dây cột, thả nó theo dòng nước mà đi, mặc nó muốn trôi ra sông cái hay trôi theo chiều ra biển. Tàn buổi chợ, bông của ngoại người ta mua không còn một chậu và ai nấy cũng bảo nhau, bông vạn thọ của hai bà cháu bán Tết năm nay, nở cánh lớn, nhiều bông hơn và vàng hực như một trời Xuân mới.
Chiến tranh, ngày một tăng dần và lan rộng hơn trong mấy lúc gần đây, người dân ấp Bến Mương cảm thấy hình như nó đang ngấp nghé đâu đó tới gần mình và cảm thấy đời sống họ không còn bình thản như trước nữa. Đám con nít chăn trâu ngoài cánh đồng, chạy dài theo Truông Nứa giờ đã hối hả lùa trâu về chuồng khi mặt trời chưa kịp lặn. Chiếc xe đò nhỏ quen, chạy chuyến chót Tây Ninh – Gò Dầu cũng không về ngang Bến Mương, lúc nhà dân bên đường lộ, chập chững lên đèn như những ngày trước đó. Sau Tết ta vài ngày, vợ chồng chị Bền dắt nhau về thăm nhà và cũng để báo tin cho ngoại biết, hai người sẽ dọn xuống Hốc Môn, ở chung với bà dì vì bà vừa mở một cái sạp bán kẹo đậu phộng và bánh ú lá tre, bán cũng khá đắt, thôi không đi cấy ruộng mướn. Họ cũng định đem thằng Chuồng theo nhưng thằng Chuồng một hai gì cũng nhất định ở với ngoại, rốt cuộc chỉ có hai vợ chồng về lại Gò Dầu Thượng.
Ra Giêng, ngoại và thằng Chuồng không còn ở Bến Mương nữa. Căn nhà tranh và miếng đất nhỏ bà bán lại cho thiếm Ba Thắm lấy chút tiền. Thiếm Ba mũi lòng hứa sẽ giao trả khi nào ngoại trở lại đây. Được sự giúp đỡ của ông Bảy Luôn, người đứng đầu, trông coi cái Thánh Thất Cao Đài xã Thạnh Đức, ngoại đưa thằng Chuồng lên cô nhi viện ở với bà và ở đây đã cho nó theo mấy anh lớn học nghề thợ mộc, tại cái trại đóng bàn ghế trong khuôn viên Tòa Thánh. Ngày hai buổi ra vào quét dọn ngoài trong, nghe tiếng đám trẻ thơ ngây, cười vang ngoài sân trước vườn sau, ngoại cảm thấy lòng mình ngập tràn một niềm thanh thản.
Hôm từ giã bà con trong ấp, đứng chờ đón xe từ Gò Dầu lên, trời đã gần giữa trưa mà sương mù vẫn chưa tan trên mấy cánh đồng xa phía bên này sông cái. Hai bà cháu ngồi sát hàng ghế gần cửa sổ xe, nhìn lần cuối cùng cái Truông Nứa lờ mờ phía sau, thầm mong là sẽ mãi mãi và vĩnh viễn không bao giờ thấy lại nó nữa.
Thuyên Huy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét