Chữ nghĩa làng văn
***
Yêu em từ độ méo trời
Khi nào méo
đất mới…rời em ra .
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
“Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối”
làm lễ mở cửa mả
Lễ mở cửa mả, lễ vật ngoài hương
đèn, hoa quả còn bộ tam sên:
- Trứng, con cua luộc và miếng thịt ba rọi
- Và một con gà mái còn sống.
Sau đó thả gà cho đi đâu thì đi. Gà phải đợi
làm lễ, vừa bơ vơ,
vừa mệt nên ngơ ngơ không biết đi đâu nữa.
Ngụ ý câu thành ngữ trên chỉ những người lúc
nào cũng ngơ
ngơ, ngác
ngác như…gà mở cửa mả.
Tướng mặt
1 - Khuôn mặt chữ Điền (田) :
Đây là khuôn mặt vuông vức có trán rộng, cằm hơi
nhô, độ dài, rộng của cằm tương đương phần trán. Mặt trông rắn rỏi nhưng không
thô, thuộc dạng dễ coi.
Trong “Phong cách học tiếng Việt hiện đại” khoa trương hay phóng đại là biện pháp nói giảm hay nói quá sự thật nhằm diễn tả sự vật hiện tượng dưới cái nhìn châm biếm hoặc khách quan.
Ví
dụ:
Lỗ mũi mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng
trời cho
)
Có gan thì làm paté
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
Ăn uống khoan thai là người thanh cao
Ăn uống nhồm nhoàm là người thô tục
Bạn tôi, Trần Đông Phong
Những bài
biên khảo của ông gần đây trên báo chí hải ngoaị đã chứng tỏ ông là người biên
tập có trách nhiệm và những tài liệu ông đã sưu tập, tra cứu, phần lớn mới lạ,
chưa được trình bày trên báo chí và mang một giá trị lịch sử cao.
Năm 2006, cuốn “Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng” của Trần Đông Phong được
xem như một best-seller nhưng chưa được tái bản, cũng như cuốn “Kẻ Sĩ Cuối
Cùng” chưa kịp ấn hành trước khi ông qua đời. Trần Đông Phong cũng đã để lại
nhiều bản thảo biên khảo trên trang nhà Vietnam Exodus và nhiều tài liệu biên
khảo công phu khác chưa ra mắt bạn đọc.
Gần đây ông được mời vào Ban Giáo Sư của Hội Việt Học và đã thuyết trình tại hội
về hai đề tài: “Cuộc Gặp Gỡ Đầu Tiên Giữa Hoa Kỳ Và Việt
(Nguyễn
Xuân Thiệp)
Những người xuất hiện trên Văn đa số đều thành danh và nổi tiếng
như: Y Uyên, Nguyễn Mộng Giác, Kinh Dương Vương, Trần Hoài Thư, v…v… (dĩ nhiên
trong một bài viết như thế này sự thiếu sót các tên tuổi không làm sao tránh
khỏi)
(Phạm Thành Chương)
Viết “xiêu” mới đúng. Nếu xem “liêu xiêu” là từ láy, thì “xiêu” chính là tiếng gốc, có nghĩa là xiêu vẹo, xiêu đổ. “liêu xiêu ở trạng thái ngả nghiêng, lệch như muốn đổ. Đi liêu xiêu chỉ chực ngã”.
(Hòang Tuấn Công)
Gặp gỡ nhà văn miền Bắc
Tên chủ nhà ghi trên tấm bảng đồng gắn phía trước cửa khiến tiếng gõ của tôi thêm mạnh dạn. Bên trong có tiếng giầy dép khua động. Rồi cửa mở. Chủ nhà, một người nhỏ thấp, giơ bắt tay tôi. Tôi bước lên một chiếc cầu thang gỗ. Ở đầu cầu thang nhìn qua một gian phòng rộng. Tôi bước vào một phòng lớn trông như một thư viện. Một tủ sách rất rộng và cao chiếm nguyên một vách tường dài. Tủ gỗ đánh véc-ni bóng, sau ngăn kính những cuốn sách dầy cộm xếp ngay ngắn, trang trọng. Nhìn qua gáy tôi thấy có rất nhiều sách chữ Hán.
Giữa phòng là hai cái bàn phủ khăn trắng đặt liền nhau, trên để những chai rượu
bia và đĩa đựng trái cây. Chủ nhà xếp tôi ngồi nơi một chiếc ghế đặt ở đầu bàn.
Tôi nhìn hai dẫy ghế trống dài ở hai bên bàn, nói với chủ nhà:
– Anh bắt đầu làm tôi lo đấy. Tưởng đến thăm anh nói chuyện một lát thôi, không
ngờ anh làm to chuyện quá.
Anh ta khẽ mỉm cười, nheo cặp mắt sáng sau cặp kính cận, nói:
– Có gì đâu. Nghe tin anh về một số anh em ở đây cũng muốn gặp anh. Vả lại hôm
nay là một ngày rất đặc biệt, ngày sinh thứ 100 của Cụ. Chúng tôi cũng muốn làm
cái gì để tưởng nhớ Cụ. Anh cứ tự nhiên nhé. Các anh em cũng sắp tới cả bây
giờ.
Nói xong anh xin lỗi đi xuống cầu thang…
Tôi nhìn xung quanh. Bên cạnh tôi trên
một chiếc bàn nhỏ có đặt một máy vi tính để mở. Màn ảnh của máy hiện lên bức chân dung màu
của bố tôi, bức tranh do họa sĩ Nguyễn Gia Trí vẽ.
Ngay trước mặt tôi đặt một quyển sách rất dầy,
bìa bọc giấy láng đề Từ điển văn học bộ
mới.Tôi giở trang sách. Trên trang giấy đầu dưới hàng chữ in Từ Điển Văn Học là hàng chữ viết tay nắn
nót và chữ ký của chủ nhà.
Bản tặng anh Nguyễn Tường Thiết và gia đình Nguyễn Tường nhân 100
năm ngày sinh cố văn hào Nhất Linh. Hà Nội
Nguyễn Huệ Chi. (*)
Tác
phẩm: Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam thời cổ cận đại (tập tiểu luận, H. 1963), Từ điển văn học, (Khoa học xã
hội, H. 1983), Thơ văn Lý – Trần (nghiên cứu, biên soạn, dịch thuật H.1974 và
1989), Gương mặt văn học Thăng Long (Nghiên cứu
văn hoá Hà Nội), Trung tâm văn hoá Văn miếu – Quốc Tử Giám (H. 1994)
Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả
Viết “xíu” mới đúng. Vì
“xíu” nghĩa là “nhỏ” (trong “bé xíu”, “chút xíu”). “tí xíu như chút xíu. Còn tí xíu nữa”.
(Hòang Tuấn Công)
Con trâu - tác phẩm độc đáo
Độc đáo vì Trần Tiêu là người duy nhất của Tự
lực văn đoàn gồm những trí thức văn nghệ sĩ Tây học và trung lưu thành thị lại
sống gắn bó với nhà quê và tự đảm nhận việc miêu tả tỉ mỉ đời sống ở nhà quê.
Ngoài Con trâu, tất cả những truyện ngắn, truyện dài của Trần Tiêu
đều có thể trở thành tư liệu “thực tế” cho các thế hệ sau. Những tác phẩm khác
của ông về đề tài này, có thể kể như Chồng con (tiểu thuyết,
1941), Sau lũy tre (tập truyện vừa, 1942), Truyện
quê (tập truyện ngắn, 1942)…Ngay từ những truyện ngắn đầu tiên, người
đọc đã thấy tác giả này có bút pháp gọn gẽ, dễ hiểu, bỏ những cấu trúc và từ
ngữ cổ điển trong tạp chí Nam Phong.
Nhà văn Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Nếu
muốn tìm những việc oái oăm, những cơ mưu lắt léo trong Con
trâu người ta sẽ không bao giờ
thấy cả. Ở tập truyện này chỉ diễn ra rặt những việc rất thường trong lũy tre
xanh, những việc hàng ngày của dân quê”.
Còn nhà văn Kim Lân thì cho rằng: “Tác giả này khai thác những nét bình dị,
chân thật của đất quê, không thi vị hóa, cũng không nặng về trần tục. Tôi rất
thích tác phẩm Con trâu của
Trần Tiêu. Xoay quanh chuyện con trâu thực chất là chuyện con người”.
(Nguyễn Tiến Văn)
Trần Vàng Sao: nhà thơ mê vẽ
-
Nhiều người tưởng mình ký bút danh Trần Vàng Sao lúc ở côi ngàn. Không phải mô.
Mình chọn bút danh Trần Vàng Sao khi ở Huế, từ bài thơ Khởi hành. Tập
san Nhận Thức đăng tác phẩm ni, nhưng ban biên tập lo ngại lộ
bí mật nên giản lược Trần Vàng Sao thành Trần Sao. Tháng 6-1965, mình lên rừng.
Cuối năm 1967, mình bị sốt, phải vô trạm xá để điều trị. Lúc đó, Ban Tuyên huấn
Thành ủy Huế thực hiện tập văn thơ Nổi lửa. Anh em tới trạm xá hỏi
bài, mình viết ngay một mạch Bài thơ của một người yêu nước mình,
kể toàn chuyện đời mình. Cuối bài thơ, mình ghi rõ ngày sáng tác:
- Bài
thơ của một người yêu nước mình được văn đàn cùng bạn đọc miền
Mình
cự: “Đăng hay không là quyền anh. Đổi tên tác giả là quyền tôi. Tôi không bao
giờ đổi tên Trần Vàng Sao. Nếu đăng, anh không đươc quyền đổi tên tác giả.” Lúc
đó, báo Văn Nghệ Giải Phóng in lại Bài thơ của một
người yêu nước mình với bút danh Trần Vàng Sao. Do đó, Trần Hoàn lúc
nớ mần Trưởng ty Văn hoá tỉnh Thừa Thiên đồng ý giữ nguyên bút danh Trần Vàng
Sao ở 2 bài thơ Nổi thêm lửa căm thù và Bài thơ của
một người yêu nước mình trong tập Huế từ ấy.
Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
Hồi hộp, rụt rè là cảnh giác tôi bước xuống
lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng “Dạ” ngọt như mía lùi của bà bán
hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng “Dạ” ấy dành cho mình, tôi
ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều
mà tôi chưa từng thấy.
Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh
lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, coi khách hàng như những kẻ
làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn
các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù
là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.
Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt. Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp có.
Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột
nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá,
miếng sườn văng vào tôi và tôi vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó
rơi xuống đất.
Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã
làm tôi sửng sốt.
(Sài Gòn gải phóng tôi – Nguyễn Quang Lập)
Chân dung Văn học Nghệ thuật & Văn hóa
“Căn
phòng nhỏ hẹp ngày nóng đêm lạnh ấy là không gian sống và cũng là tòa soạn
báo Văn của Mai Thảo.
Mỗi lần tới thăm anh, tôi vẫn để ý tới chiếc bàn viết lữ thứ của Mai Thảo kê
sát khung cửa sổ thấp nhìn thoáng ra bên ngoài. Rồi tới kệ sách, không có nhiều
sách Mai Thảo, chỉ có ít cuốn sách tiếng Pháp, mấy số báo Văn, đôi ba cuốn sách mới bạn văn gửi tặng anh.”
“Nếu
không là ngày phải ra trễ, tôi ghé qua chợ mua một món ăn gì đó, đem tới bày
thêm vào mâm cơm gia đình. Có thêm món thịt, thêm chút chất đạm thì hôm đó với
hai đứa nhỏ như là bữa tiệc. Những lần gặp nhau, tôi và Nghiễm đều ít nói. Hình
như Nghiễm có viết ở đâu đó là những điều không cần nói ra nhưng cũng đã hiểu
nhau rồi.”
Một
phần tuổi thơ...
Cá
nuôi nhiều hủ, để liền kề sát nhau, giữa các hủ lấy một tờ giấy tập ngăn lại cho
tụi nó không nhìn thấy nhau. Chớ nếu mà nhìn thấy, thì nó sẽ đá bóng đến rách
đuôi, toách mỏ chớ không đơn giản. Cá lia thia nuôi bằng rong vớt ở những hồ có
nước mưa ứ đọn . Khi nào có tiền để dành thì cả đám lội bộ đi qua Phú Lâm, qua
Xóm Giá để mua cá lia thia xịn về chơi. Cá xịn là cá phùng 2 mang ra khá to, Cá
màu xanh dương đều, không có một tí đỏ xen kẻ, đám nhỏ tụi tôi gọi là cá Xiêm.(chữ
Xiêm nầy hình như có liên quan đến mãng cầu xiêm , chuối xiêm và dừa xiêm),
Xiêm là tên gọi nước Thái thời nhà Nguyễn .
Khi
nào muốn đá, thì vớt hai con sang hủ to. Hoặc tô, tộ ăn cơm hay thau nhôm loại
vừa cho tụi nó đá. Nhiều con nhát mới đá là bỏ chạy. Nhiều con lì lợm đá mình
mẫy trầy trụa đuôi rách tả tơi nhưng quyết tâm không chạy.
Theo giáo sư sử
học Trần Quốc Vượng nhờ tìm ra Đại Việt sử lược hay Việt sử lược viết vào thế kỷ 14, ông dịch sang Việt
ngữ mới hay biết vua Hùng lập quốc khoảng 700 năm trước CN, vào đời Chu. Cộng chung 2.700 năm chứ không phải 4.000 năm.
Đó cũng là nơi trở về sau buổi tối cùng anh em ở những hàng quán. Trong
lòng băng ghế trước, ông ngồi so vai lặng lẽ giữa âm thanh nổ trầm một nhịp của
động cơ xe hơi. Năm phút, mười phút... bỗng ngẩng đầu nhìn lên vuông cửa sáng
đèn, rồi nhìn gã ‘tài xế’ (cũng là bạn rượu) (Cao Xuân Huy), cất giọng: "Bây
giờ... lên trên ấy... Buồn nhỉ?".
Giọng nói nhỏ nhẹ, trầm tĩnh, nhừa nhựa hơi men. Không phải lời ta thán.
Nhưng mà, nhưng mà... nó xoáy vào tai, nó làm trái tim đau quặn, nó mở ra trước
mặt người nghe cái thế giới quạnh hiu hoang lạnh một cuối đời.
Đó cũng là nơi, nhiều ngày, nhiều tuần, tấm màn cửa sổ mãi khép toàn phần, cánh cửa màu nâu sẫm mãi đóng câm lặng: Ông đang lang thang đâu đó
trong một thành phố khác, một nơi khác. Những chuyến đi, những cảnh thổ mới,
những bè bạn. "Vẫn vậy, hết rồi những ngạc nhiên, những bàng hoàng, những
niềm vui bất chợt. Đi không có nghĩa như một tìm kiếm cái lạ cái hay. Đi chỉ
giản dị là đi. Bởi ở đâu thì cũng thế, ở đâu thì cũng là di chuyển một bàn rượu
này qua một bàn rượu khác".
Và mỉm cười hom hem:
"Ngày xưa Nguyễn
Tuân mơ ước lúc chết sẽ được thuộc da làm chiếc va-li. Thời trẻ tôi yêu lắm ước
mơ này của Nguyễn. Bây giờ, ngẫm nghĩ, đi như ông ấy thì... ‘ra cái đếch
gì’."
(Khánh Trường)
Tôi đi qua một nửa đời, tìm đọc không biết là
bao sách cũ dù biết là mình không thể nào đọc hết dẫu có thể thu góp lại tất cả
kho tàng, những câu hỏi cũ còn hoài, cho đến khi tuổi đời ghè bớt cái tánh cứng đầu, bớt lòng háo
thắng. Tôi phải tìm đọc Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền để tự trả lời
mình, văn học miền
Tôi tìm thấy Mai Thảo khi đọc câu thơ “Đời ta sử chép cả nghìn chương,”
khi Mai Thảo tuôn đổ cảm xúc suy nghĩ xuống trang giấy trắng. Cái nhìn về một
quyết định không thể giải thích của một cõi lòng hoang mang trong một khoảnh
khắc thật ngắn mà không thể bỏ qua không thể quên đi, đọc lại vẫn thấy ngợp.
Và không thể nhớ gì hơn dù một chữ, một lời.
Những con chữ, chấm câu ngắt khúc, nó có nhịp sống riêng không gạn lọc so đo.
Chưa chắc người viết có thể sửa được những gì đã được viết xuống mà không phản
bội cảm xúc ý nghĩ của mình. Nếu đọc chữ của Mai Thảo như đọc văn, một mạch với
những kết cấu dựng nên thì sẽ bị nhốt trong cái sườn văn hoa đó. Quên hết đi
chỉ đọc những suy cảm, không tìm mà thấy một Mai Thảo với tâm hồn và suy nghĩ
thật phong phú sâu sắc, một con người chỉ viết về quá khứ và chỉ nói về cảm xúc
của mình. Mai Thảo sống thật trọn vẹn mà vẫn mang theo mình một nỗi cô đơn; xem
thường tất cả mà mọi người chung quanh vẫn cảm được cái quan hoài; thật ngang
ngược thật quái mà người chung quanh vẫn bị cuốn hút vào, hạt cát sông
Hằng ấy, từ những năm 50’s, 60’s, đã đòi
chế lấy
mây và gây lấy nắng
chế lấy,
đừng vay mượn đất trời…
Văn học với những tâm hồn ý tưởng đó đáng ra
phải được bảo tồn phát huy, có phải?
(Văn học miền
Phê bình nhất định
là khó
Tôi không thể bỏ qua cuộc
bút chiến giữa một bên là ông Trần Mạnh Hảo và bên kia là các giáo sư Trần Đình
Sử và Nguyễn Đăng Mạnh. Ông Trần Mạnh Hảo là tài tử, còn hai ông kia là chuyên
nghiệp. Nhưng ông Hảo đã dùng từ chuyên nghiệp, trái lại hai ông kia như ở trên
đập xuống, gọi ông Hảo là anh Chí (Chí Phèo)
và dùng những từ miệt thị… Ông Nguyễn Đăng Mạnh chửi chưa đã, học trò ông
Mạnh cũng chửi theo giọng hùa hùa.
Trước đây, ông Nguyễn Văn Trung gọi: phê bình một bài phê bình của người khác
là: Phê Bình Phê Bình. Thế kỷ 21 này có lẽ phải có môn: Phê Bình Phê Bình Phê
Bình. Rồi người thứ ba lại Phê Bình những lập luận của các ông Nguyễn Đăng
Mạnh, v…v…
Trở lại ông Nguyễn Huy
Thiệp, sau khi nổi tiếng, nhất là văn giới bên Pháp chú ý, người ta viết về ông
ào ào! Có lẽ thuộc loại kỷ lục. Tôi thấy có hai nhà lý luận, chắc là được đào
tạo bài bản, viết bài mà tôi đọc hiểu… chết liền! Có lẽ chính hai ông, sau này
đọc lại cũng không hiểu mình viết gì.
Khi nhà phê bình nhiều quá! không biết viết gì thì sẽ… soi mói thôi. Thảo nào
nhiều người không thích và… xem thường các nhà phê bình. Ông Hoài Thanh nói
mình chỉ bình thôi chứ không dám phê. Ông Nguyễn Tuân thì không ưa, không thích
nói chuyện với các nhà phê bình. Còn Nguyễn Huy Thiệp thì rất bực bội khi có
người “nhòm ngó“ vào tâm hồn ông để xem xem nó ra làm sao (!), ông có “thực“ là
một “nhà văn“ hay không?
Khi nhà phê bình rất
nhiều, mà chữ nghĩa thì tỷ lệ nghịch với số lượng thì… nó ra làm sao!
Mà nếu nhà phê bình kém xa nhà văn về chữ nghĩa cũng như tư tưởng thì nó ra làm sao?
(Chân Diện Muc)
Tình dục trong làng văn xóm chữ
Lãng Tử đã
viết trên Tuần báo Mai như sau: “Bây giờ, quen thuộc với cái
táo bạo của tư tưởng Âu Mỹ, ta còn phải ngạc nhiên với lời văn khiêu dâm của
ông Trương Tửu, Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang, chớ có biết đâu rằng hồi đó, lúc
ảnh hưởng của Tống Nho còn đang khắc nghiệt vô cùng mà Lê quân cũng đã dám có
những ý nghĩ táo tợn và dạn dĩ mà viết Hà Hương phong nguyệt”.
Đã có một
cuộc bút chiến dữ dội xung quanh tác phẩm này. Nhiều nhà văn, nhà báo như Nam
Kiều Trần Huy Liệu, Hốt Tất Liệt Nguyễn Háo Vĩnh, Nguyễn Chánh Sắt, Cao Hải Để,
Trì
Có những ý
kiến hết sức gay gắt, thậm chí có người còn lên án Lê Hoằng Mưu như là “một đứa
tội nhơn lớn nhứt của nước An Nam” (Công luận báo, số 48, 1928). Trước
áp lực của dư luận, cuối cùng Hà Hương phong nguyệt đã bị
chính quyền thuộc địa ra lệnh tịch thu và tiêu hủy ví lý do tác giả đã miêu tả
những cảnh “ăn chơi trác táng trái với thuần phong mĩ tục”.
(Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học – Võ Văn Nhơn)
Sắc
không, không sắc
Cuối năm 1946, trên đường tản cư, khi qua làng Văn Tràng, tỉnh Nam Định,
chúng tôi thấy trên cổng chùa đề bốn chữ : Sắc không, không sắc. Bốn chữ tuy ý nghĩa uyên ảo song là chữ cửa
miệng của nhà Phật, không có gì đặc biệt, đặc biệt có chăng lá bên giòng lạc
khoản đề tên Tam
nguyên Yên Đổ.
Chúng tôi lấy làm lạ sao ông Tam Nguyên lại cho bốn chữ thông thường quá như
thế, sau có một bạn người làng giảng cho mới hiểu. Nguyên làng này chuyên
về nghề mài
dao đánh kéo, trong lúc làm người ta thường hay vấn đáp: “Sắc chửa - Chưa sắc”
Bốn chữ "Sắc không, không sắc" dùng chỗ khác thì
không có gì đặc sắc nhưng đề vào chùa một làng mài dao, thì lại ngụ một nụ cười
hóm hỉnh !
Là vì nếu đặt câu hỏi : sao không dùng như lời nói thường "Sắc sắc không không" hoặc
"Không không sắc sắc"
mà lại đặt chéo là "Sắc không không sắc"? Nếu hỏi
thế, ắt đã phải ngợ một dụng ý gì của ông Tam Nguyên. Ngợ thế thôi, chứ cũng chẳng
ai ngợ được rằng ông Tam Nguyên đã dùng chữ sắc theo cái nghĩa là …sắc bén.
(Chơi chữ - Lãng Nhân Phùng Tất Đắc)
Chùa Keo
Theo những tài liệu được ghi trong Không Lộ
Thiền Sư Ký Ngữ Lục năm 1061, thì nhà sư Không Lộ đã dựng lên ngôi chùa Nghiêm
Quang tại địa phận của làng Giao Thủy (cũng gọi là
làng Keo) ở về phía hữu ngạn của con sông Hồng. Sau khi thiền sư Không Lộ qua đời thì chùa Nghiêm Quang
được đổi tên là chùa Thần Quang. Năm 1611, trận lụt lớn trong vùng sông Hồng đã
cuốn đi làng mạc trong vùng kể cả chùa Keo nữa.
Dân chúng trong làng di dân về vùng Đông Nam hữu ngạn sông Hồng dựng chùa Keo ở khu vực làng Hành Thiện; còn số người khác thì đến lập nghiệp tại phía đông bắc tả ngạn sông Hồng và dựng lên chùa Keo ở Thái Bình. Những chứng liệu cho biết là chùa làng Keo ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Chùa Keo Thái Bình
Chùa keo
Về chuyện thiền sư Không Lộ có nhiều truyền thuyết. Ngài tên thật là Nguyễn Chí Thành; chịu ảnh hưởng của Mật Giáo do từ ngài Vô Ngôn Thông truyền thừa. Ngài từng sang Ấn Độ học về giáo lý và bùa phép Mật Tông và đắc quả Lục trì thần thông có nhiều khả năng trị bệnh.
Nhiều giai thoại chung quanh ngài Không Lộ.
Chẳng hạn như việc ngài Không Lộ qua nước Tống
xin đồng về đúc chuông, tượng và đỉnh. Với một tay nải nhỏ mà ngài đã bỏ vào
gần hết kho đồng của nhà Tống được thu nhỏ lại (?)
(Kiêm Thêm)
Văn hóa…cây cỏ
Cây cơm nguội sống hàng
trăm năm, có khi còn dài hơn một đời người. Cây cơm nguội mọc thành hàng, cho
phố thêm thơ mộng. Trong bóng hàng cây ấy, ai là người có những kỷ niệm vui
buồn của đời mình với một gốc cụ thể nào? Có thể đó là hôm đi bắt ve sầu, lúc
đánh mất hòn bi ve, hôm đi tiễn đưa người bạn, cái buổi lần đầu tiên cầm tay
ai, hồi hộp không nói nên lời.
Cây cơm nguội
hẳn biết chia sẻ nỗi niềm, tình cảm ấy. Vì thế mà nó cứ thì thầm lao xao, mà
rung rinh sáng lên trong nắng ấm, trong mưa phùn, trong dòng đời của bao cây
khác, hoa rực rỡ hoặc thơm ngát hoặc thơm nồng... Cây cơm nguội khiêm tốn vì hoa không thơm, cành
không thẳng, lá không to... nhưng nó là sự kiên tâm, bất
chấp đổi thay thời tiết... Tuy vậy, cũng có những cây cơm nguội quá già nua, bị
sâu ăn ruỗng, phải nhường chỗ cho cây non, có khi là khác loài. Nhưng nó im
lặng, vui lòng./.
Một bộ yên lưng bằng da có hai quai lồng vào hai gọng đặt hai bên vai ngựa. Sợi yên lưng xuôi trên sống lưng ngựa, ngoài ra có dây bụng mắc vào dưới bộ yên lưng cho ngựa không bị sức nặng đè vai hoặc bó chặt ngực khó chạy.
Bên trong thùng xe,
khách ngồi trên chiếc chiếu bông đâu mặt nhau, chân co về một phía, guốc dép
máng ở hai cọc sắt phía sau hai góc thùng, ít người thì khách ngồi thòng chân ở
phía có bàn đạp lên, xuống dễ dàng. Phía đầu thùng xe hai bên là cặp tai đèn.
Hai cái vè chở hàng bằng gỗ bề ngang hơn tấc tay, uốn lượn như dợn sóng rất
thẩm mỹ, cặp trên hai bên thùng xe có sức chịu lực mỗi bên khoảng ba bốn mươi
ký. Trên cùng là cái mui uốn cong, lợp thiếc nhô ra tới nửa mình ngựa, khum lại
như cái vành mũ.
(Khuyết danh)
Ông đã phò Nguyễn Ánh trong suốt 24 năm. Ông
cũng là người mang hoàng tử Cảnh, con Nguyễn Ánh sang Pháp làm con tin cầu viện
nhờ Pháp giúp đánh Tây Sơn. Lúc đầu Pháp hứa nhưng sau lại nuốt lời và Nguyễn
Ánh bị Tây Sơn đánh cho tơi tả.
Chỉ sau 5 năm có mặt ở Việt
(Trân Chánh Nghĩa)
“…Từ Ba Tàu có cách giải thích như
sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và
sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt
nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu
lại mang nghĩa miệt thị.
Còn có cách giải thích khác: Người Việt thường xưng hô theo thứ tự như anh Hai (con cả) anh Ba (con thứ)... Vì lý do đó mà người Tàu thường gọi thân mật người Việt đang làm ở các cơ quan Pháp thời đó là anh Hai (cậu Hai) và xem mình là em (anh Ba). Từ đó người Việt mới gọi anh Ba (Tàu) là vậy.”
Con vua thì lại làm vua,
Con nhà kẻ khó bắt cua cả ngày.
Tám chân hai mắt, biết bò ngang ngang
Thấy chị hai mầy lớn đít tao thương
Thôi thôi em đừng có vẽ bùa mà đeo
Đám ma Lý Toét
Tất cả bộ mặt xôi thịt làng xã
được vẽ lại qua vài nét vẽ phác mà sâu. Hài hước mà đớn đau. Đó là biệt tài của
Đỗ Đức Thu, ông đã đạt được nghệ thuật cao của sự mô tả: mỗi nét chấm phá của
ông đều vạch ra ít nhất hai bức tranh chồng chéo: bi đi với hài.
Nxb. Đời Nay, Hà Nội, 1940
Tác giả: Đỗ Đức Thu sinh ngày
Tác phẩm: Vỡ lòng
(tiểu thuyết) NXB Đời Nay, Hà Nội 1940, Nhà bên kia (tập truyện ngắn) NXB Công
Lực, Hà Nội, 1943, Đứa con tạp chí Thanh Nghị 1943
Vá áo, túi cơm không có nghĩa.
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những loài giá áo túi cơm xá gì
(Kiều 2445 và 2446)
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Nhà thơ Trần Đăng Khoa lên tiếng về bài của Nguyễn Vỹ
Còn bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư thì nguyên văn như thế này:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ.
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Cha tôi, như nhiều người Việt khác, là người có khả năng sinh tồn mạnh mẽ, sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại và bất hạnh của đời sống để lo cho vợ con. Vào các năm trước cái gọi là Chiến thắng Điện Biên Phủ, rồi tiếp theo là việc ký kết Hiệp định Genève vào mùa hè năm 1954 giữa Pháp, chính phủ Bắc Việt của Hồ Chí Minh, Lào, Trung Cộng, Liên Xô và Anh (Hoa Kỳ từ chối không ký, còn chính phủ Nam Việt Nam không chấp nhận Hiệp định) được ký kết, cha tôi đã làm chủ một hãng xe chở hành khách gồm cả xe đò và xe nhỏ, hình như hiệu Citroen, không rõ tại sao gọi nôm na là xe lô-ca-xông, tôi đoán từ chữ “location”, ngược xuôi các tuyến đường Hà Nội - Hảỉ Dương - Hải Phòng và Hải Phòng - Đồ Sơn, tôi nhớ đại khái thế. Hãng xe của cha tôi tên là Đông Bình, nên nguời ta hay gọi cha mẹ tôi là Ông Bà Đông Bình, chúng tôi là con Ông Bà Đông Bình. Tôi không bao giờ có dịp hỏi tại sao ông chọn tên đó, nhưng nghĩ có lẽ đó là do khao khát được nhìn thấy hoà bình trên giải đất dọc theo bờ biển Thái Bình Dương lâu nay chiến tranh triền miên này. Hai người anh họ ruột của tôi cũng mỗi người được cha tôi nâng đỡ tậu được một hay hai xe chở hành khách, tự đặt tên là Bắc Bình và Nam Bình. Tôi không rõ vì sao cha tôi không nghĩ tới việc mua bất động sản, mà suốt thời gian sống ở Hải Phòng ông thuê nhà chứ không mua. Tôi còn nhớ ngôi nhà chúng tôi ở trước khi di cư vào Nam là ở số 3 Ngõ Nghĩa Lợi, một đầu ngõ gặp đường Cát Dài, và đầu bên kia đụng một đường rầy xe lửa nằm bên cạnh một hồ sen mà hình ảnh vẫn còn in trong trí nhớ tôi, mà loài sen là hoa tôi rất thích. Không mua nhà đất có lẽ vì cha tôi thấy không cần thiết vì ông chắc chắn sẽ thừa hưởng nhiều ruộng đất để lại của bà Nội tôi khi bà qua đời.
nhà thơ đã khuất núi
(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn
Tổng hợp từ nhiều
nguồn)
Nguyễn Xuân Hoàng sinh ngày
Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm, Văn Khoa (Triết
học), Viện Đại học Đà Lạt (1958-1961), rồi giảng dạy môn Triết tại trường trung
học Ngô Quyền ở Biên Hoà (1961-1962), tại trường Pétrus Ký ở Sài Gòn
(1962-1975). Ngoài ra, ông còn làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn ở Sài Gòn
(1972-1974).
Nguyễn Xuân Hoàng
(1940-2014)
Năm 1985, ông đến Hoa Kỳ và định cư tại
Tập truyện ngắn
Mù sương (1966)
Sinh nhật (1968)
Truyện dài:
Bụi và rác (1996)
Khu rừng hực lửa (1972)
Kẻ tà đạo (1973)
Người đi trên mây (1987)
Sa mạc (1989)
***
Phụ đính II
Tô Hoài và cuốn từ điển về từ ngữ – 1
Ông (Tô Hòai) đặc biệt rất chú ý học chữ. Ông chê nhiều
người viết văn bây giờ thiếu chữ và dùng chữ rất ẩu. Nhiều chữ họ không hiểu.
Làm văn thì phải học chữ. Có cách học và chịu khó thì lúc nào cũng học được.
Ngôn ngữ Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét