10 thg 6, 2020

Tứ Đại Nữ Thi Nhân Đời Đường (4) : LƯU THÁI XUÂN

       
       LƯU THÁI XUÂN 劉采春, năm sanh năm mất không rõ, chỉ biết là bà nhỏ hơn Tiết Đào khoảng gần 20 tuổi. Người đất Việt Châu thuộc huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang ngày nay. Có thuyết cho là người đất Hoài Âm tỉnh Giang Tô. Lưu Thái Xuân là một ca linh nổi tiếng đời Trung Đường, là vợ của nghệ nhân Châu Qúy Sùng, cùng với anh chồng là Châu Qúy Nam lập thành một ban ca kịch. lúc bấy giờ gọi là Tham Quân Hí 參軍戲. là một hình thức hài kịch giúp vui, thường chỉ do các nam nghệ nhân thủ diễn cả vai nữ. Duy chỉ có ban kịch của Lưu Thái Xuân thì vai nữ do bà tự thủ diễn và còn đem cả các khúc ca được phổ thành nhạc từ những bài thơ nổi tiếng của các thi nhân lúc bấy giờ vào trong kịch. 
 Sau loạn An Lộc Sơn, nhà Đường chỉnh đốn lại quân bị, phòng thủ biên cương, nên nam tử trượng phu phải đi lính thú để trấn thủ lưu đồn... bỏ lại gia đình vợ con để ra ngoài biên ải, một số thương nhân của vùng sông nước cũng bỏ nhà đi buôn để tìm lợi nhuận, như Bạch Cư Dị đã nói trong TÌ BÀ HÀNh là "Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly 商人重利輕別離"(Kẻ thương buôn chỉ xem trọng lợi nhuận mà xem nhẹ sự ly biệt giữa vợ chồng với nhau). Vì thế phong trào thơ khuê oán lại dậy lên và lưu hành khắp mọi nơi trong nước. Lưu Thái Xuân lại có giọng ca thiên phú lảnh lót truyền cảm, nên khi nàng cất cao giọng thánh thót rót những lời thơ thương nhớ oán trách của những nàng khuê phụ trông chồng, thì các bà các cô đều không cầm được nước mắt. Trên 120 bài thơ khuê oán đã được tiếng hát của bà mang đi khắp cả vùng giang nam giang bắc, những khúc "Vọng Phu Ca 望夫歌" nầy còn được gọi một cách nôm na bình dân là "La Cống Khúc 囉嗊曲". LA CỐNG vốn là tên của một lâu đài do Trần Hậu Chủ xây nên bên bờ sông Tần Hoài để vui chơi hưởng lạc; dân chúng đi ngang qua đó thường nghe những khúc nhạc du dương vẳng ra, rồi cũng bắt chước mà hát theo khi đang đi trên sông nước để làm vui, thét rồi thành câu hò giọng hát trên sông.Trong Toàn Đường Thi Tập có 6 khúc "LA CỐNG KHÚC" do bà tự sáng tác và phổ vào nhạc phủ, như :
                    
                 不喜秦淮水,    Bất hỉ Tần Hoài thủy,
                 生憎江上船。    Sinh tăng giang thượng thuyền.
                 載兒夫壻去,    Tải nhi phu tế khứ,
                 經歲又經年。    Kinh tuế hựu kinh niên !
  Có nghĩa :
            "Bất hỉ" là không vui, không vui là không ưa không thích nước của con sông Tần Hoài. "Sinh tăng" là Sinh ra ghét, là Đâm ra ghét luôn những con thuyền qua lại trên dòng sông đó. Vì ... chúng chở chồng của con đi đi mãi, hết năm nầy qua năm khác (mà không thấy trở về gì cả !).

   Diễn Nôm :
 Chẳng ưa sông nước Tần Hoài,
                Ghét luôn qua lại thuyền ai trên dòng.
                Chở đi con, chở đi chồng,
                Năm nầy tháng nọ trông mong mõi mòn !
        
        Lời thơ mộc mạc bình dân, cùng với tiếng ca truyền cảm điêu luyện của Lưu Thái Xuân dễ đi vào lòng người với các từ thông dụng như BẤT HỈ (không vui), SINH TĂNG (Đâm ra giận), KINH TUẾ hựu KINH NIÊN (Qua năm nầy đến năm khác)... dễ làm ray rức xúc động lòng người cô phụ trông chồng trong chốn phòng khuê lạnh lẽo, một thân một mình chiếc bóng lẻ loi. Oán trách chán rồi thì lại tự an ủi mình như lời thơ kỳ nhị :

                 借問東園柳,    Tá vấn đông viên liễu,
                 枯來得幾年。    Khô lai đắc kỷ niên ?
                 自恨枝無葉,    Tự hận chi vô diệp,  
                 莫怨太陽偏。    Mạc oán thái dương thiên.
  Có nghĩa :
            Dám hỏi mấy cây liễu ở vườn đông kia đã khô được mấy năm rồi ? (Thôi thì nên) chỉ tự hận cành nhánh của mình không ra nổi lá nữa, chớ đừng oán trách ánh nắng thiên lệch (không chịu chiếu vào mình nên lá mới mọc ra không nổi !). Hai câu cuối "自恨枝無葉 Tự hận chi vô diệp, 莫怨太陽偏 Mạc oán thái dương thiên" đã trở thành hai câu châm ngôn để tự an ủi mình khi gặp việc bất đắc ý như thi rớt, thất bại...

  Diễn Nôm :
Liễu kia ướm hỏi tường đông,
               Khô tàn đã trải mấy năm qua rồi ?
               Đành thôi tự hận cành còi...
               Trách chi ánh nắng thiệt thòi riêng ta !

       Oán trách rồi cam chịu, hờn mát rồi lại tự an ủi mình, vì có chồng thương lái nên đành phải chịu cảnh phòng không. Ngày ngày cứ đứng ngóng bên bờ sông mong mõi bóng chàng về như người cô phụ vọng phu, rồi lại nuối tiếc...

 Có nghĩa :
             Đừng làm vợ của các ông lái buôn, cứ phải rút cây trâm vàng đi làm tiền bói toán (xem coi bao giờ thì chàng mới trở về!). Cứ mỗi buổi sáng là lại đứng trông ngóng ở đầu sông và cứ mấy lượt nhận nhầm thuyền của người khác (mà cứ tưởng là thuyền của chồng mình về!).

   Diễn Nôm :
Chớ làm vợ của lái buôn,
                  Trâm vàng bói toán thêm buồn tuổi xanh.
                  Ngày ngày trông ngóng bóng anh,
                  Nhận nhầm thuyền khác nên đành ngẩn ngơ !

      Đọc bài thơ ca nầy lại làm cho ta nhớ đến bài GIANG NAM KHÚC của LÝ ÍCH :
      
                   嫁得瞿塘賈,    Giá đắc Cù Đường cổ,
                   朝朝誤妾期。    Triêu triêu ngộ thiếp kỳ.
                   早知潮有信,    Tảo tri triều hữu tín,
                   嫁與弄潮兒。    Giá dữ lộng triều nhi !
   Có nghĩa :
                   Ai xui lấy lái Cù Đường,
                   Ngày ngày bỏ thiếp sầu thương ưu phiền
                   Lớn ròng con nước thường xuyên
                   Phải dè lấy gả chèo thuyền cho xong !
 Ta thấy, tình yêu nam nữ ở bất cứ thời đại nào cũng mãnh liệt vô cùng, tình yêu của nàng "thương lái" nầy rất thực tế, rất nhân bản, và cũng rất mãnh liệt...dám nói lên tiếng nói của con tim yêu đương cuồng nhiệt, chữ "Tảo tri" (sớm biết) là  "Phải dè" sớm biết trước, nước thủy triều lên xuống đúng hẹn, không sai bao giờ. Thì thà trước kia lấy gã chèo đò cho xong ! Nhưng oán trách thì nói thế, chớ "ngu sao" lấy gả chèo đò.  Vì, nước thủy triều thì lên xuống đúng hẹn, nhưng "gả chèo đò" chưa chắc đã về nhà đúng hẹn đâu ( mắc "đi nhậu" chẳng hạn ...). "Oán" thì nói "lẫy" thế thôi, chứ lấy chồng thương buôn giàu có vẫn hơn là lấy anh chèo đò để uống nước sông... cầm hơi à ?!                        

      Trong một bài khác, sau khi chờ đợi mõi mòn thì người cô phụ trông chồng lại nằm nhà để "theo dõi bước anh đi", nhưng bước chân giang hồ vô định càng đi càng xa, phiêu bạt vô chừng như lời ca sau đây:
                那年離別日,    Na niên ly biệt nhựt,
                只道住桐廬。    Chỉ đạo trú Đồng Lư,
                桐廬人不見,    Đồng Lư nhân bất kiến,
                今得廣州書。    Kim đắc Quảng Châu Thư.
Có nghĩa :
                Ngày chia tay năm ấy, những tưởng là chàng  trú ngụ ở Đồng Lư. Nhưng sao có người đến Đồng Lư lại không gặp được chàng. Hôm nay nhận được thư chàng từ Quảng Châu gởi đến (mới biết là chàng lại đi càng xa hơn nữa, đến tận xứ Quảng Châu rồi !).

      Diễn Nôm :
Chia tay hôm ấy năm kia,
                           Đồng Lư vẫn đợi chàng dìa bao năm.
                           Đồng Lư người vẫn bặt tăm,
                           Được thư mới biết ăn nằm Quảng Châu.

        Thấp thỏm đợi chồng về ngờ đâu chàng càng đi lại càng xa ! Biết này nào mới về lại cho đây? Chờ đợi rồi lại đợi chờ, "Ngày xuân mòn mõi má hồng phôi pha". Ngày qua tháng lụn năm tàn, người đi thì vẫn biền biệt phương trời, người ở lại cô phòng vẫn luôn khoắc khoải đợi mong đến đổi tóc đen đà hóa bạc :

              昨日勝今日,     Tạc nhật thắng kim nhật,
              今年老去年。     Kim niên lão khứ niên.
              黃河清有日,     Hoàng Hà thanh hữu nhật,
              白髮黑無緣。     Bạch phát hắc vô duyên !
   Có nghĩa :
             Hôm qua còn khá hơn hôm nay, năm nay thì lại già hơn năm qua.
             Nước sông Hoàng Hà còn có lúc trong, chớ tóc đã bạc rồi thì khó có
             cơ duyên gì làm cho đen lại được !

   Diễn Nôm :
 Hôm qua khá hơn hôm nay,
                     Năm nay gìa đến khó tày năm qua.
                     Có khi trong, nước Hoàng Hà,
                     Bơ phờ tóc bạc khó mà lại xanh !

        Lời hát của những bài VỌNG PHU CA sầu nhớ, áo não buồn thương lại được giọng ca thiên phú lảnh lót của Lưu Thái Xuân cất cao vang xa đến tận các khuê phòng làm cho những nàng cô phụ trông chồng không cầm được nước mắt nhớ thương, đến cả những lữ khách qua đường cũng phải ngẩn ngơ nhớ về nơi cố lý.

        Năm Công nguyên 823, đến trấn nhậm Thứ sử Việt Châu kiêm Chiết Đông Quan Sát Sứ là Nguyên Chẩn, một thi sĩ tài hoa đương thời đang ở độ tuổi 46, lại nổi tiếng là phong lưu bạc tình bậc nhất. Khi xem Lưu Thái Xuân diễn kịch và cất tiếng oanh vàng đã bị ngay tiếng sét ái tình mê mẩn và viết ngay một bài thơ "Tặng Lưu Thái Xuân 贈劉采春" ca ngợi nàng để tán tỉnh và tỏ lòng ái mộ :

               新妝巧樣畫雙蛾,    Tân trang xảo dạng họa song nga,
               謾裹常州透額羅。    Mạn khỏa Thường Châu thấu ngạch la.
               正面偷勻光滑笏,    Chính diện thâu quân quang hoạt hốt,
               緩行輕踏破紋波。    Hoãn hành khinh đạp phá văn ba.
               言辭雅措風流足,    Ngôn từ nhã thố phong lưu túc,
               擧止低回秀媚多。    Cử chỉ đê hồi tú mị đa.
               更有惱人腸斷處,    Cánh hữu não nhân trường đoạn xứ,
               選詞能唱"望夫歌"。  Tuyển từ năng xướng VỌNG PHU CA !

    Có nghĩa :
 Khéo tay trang điểm vẽ mày nga,
                   Phơ phất Thường Châu đẹp lụa là.
                   Điệu bộ thẳng ngay trông đĩnh đạc,
                   Gót hài yểu điệu lướt thu ba.
                   Lời từ văn vẻ phong lưu tuyệt,
                   Cử chỉ đoan trang nhã nhặn mà.
                   Cất giọng khiến người sầu đứt ruột,
                   Chọn từ nên khúc "Vọng Phu Ca"!

         Bài thơ vừa khen đào nương trang điểm đẹp, cử chỉ đoan trang thân hình yểu điệu, dáng vẻ phong lưu, lại biết soạn nên Vọng Phu Ca với lời ca thánh thoát làm xúc động lòng người... nên đã đánh động lòng của cô đào trẻ đẹp Lưu Thái Xuân. Vị quan lớn đa tình tài hoa đã khuấy động cuộc sống đang bình ổn an phận của nàng ca linh trên vùng sông nước. Nàng đã không cầm được lòng trước sự tỏ tình và cám dỗ của đối phương mà ngã vào vòng tay của Nguyên Chẩn, một tài tử đa tình nhưng chẳng chung tình chút nào cả. Nàng đã từ bỏ gia đình, chồng con, sông nước... mà về làm thiếp cho Thứ Sử Việt Châu Nguyên Chẩn.

        Năm Công Nguyên 829, Nguyên Chẩn được điều về Trường An, hồi triều để giữ chức Thượng Thư Tả Thừa. Bỏ lại Lưu Thái Xuân chờ đợi mõi mòn ròng rã suốt hai năm trường. Khi biết ra thì Nguyên Chẩn đã có người yêu khác là Linh Lung, một hồng nhan tì thiếp của Bạch Cư Dị. Thẹn với chồng với con, với đoàn ca kịch, với sông nước Giang Nam... Khoảng năm Công Nguyên 831, Lưu Thái Xuân đã nhảy xuống sông tự trầm để kết liễu đời mình khi chỉ mới hơn ba mươi tuổi, để lại một bài thơ tuyệt mạng như sau :

                聞道瞿塘顧堆懷,   Văn đạo Cù Đường cố đối hoài,
                高山流水近陽台。   Cao sơn lưu thủy cận Dương Đài.
                旁人哪得奴心事,   Bàng nhân nả đắc nô tâm sự,
                美景良辰永不回!   Mỹ cảnh lương thần vĩnh bất hồi !
     Có nghĩa :
  Nghe nói Cù Đường dạ xót xa,
                    Dương Đài non nước có đâu xa.
                    Người ngoài nào biết đâu lòng thiếp,
                    Cảnh đẹp thôi rồi chỉ thoáng qua !

        Thế là tàn một cuộc đời tài hoa, nhẹ dạ nên bị quyến rủ bởi lời ong tiếng ve của kẻ bạc tình ! Tội nghiệp thay cho thân phận của một ca nhi, suốt cả cuộc đời mang tiếng hát khóc thương cho số phận của những người thiếu phụ phòng không chiếc bóng mòn mõi đợi chồng về, cuối cùng, khóc cho người mà cũng khóc cho chính mình, khi kẻ bạc tình lang đã một đi không trở lại !...
  Hẹn bài viết tới : NGUYÊN CHẨN kẻ bạc tình nổi tiếng nhất trong Đường Thi !

                      
                                                                 杜紹德
                                                             Đỗ Chiêu Đức

Mời Xem Lại :





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét