14 thg 9, 2017

Những quan ngại về việc sử dụng thuốc đông y

Nhân đọc bài “Chính phủ Trung Quốc cổ vũ cho y học cổ truyền: Tại sao lại nguy hiểm?” của Giang Le trong đó tác giả dẫn nguồn là bài “Why China’s traditional medicine boom is dangerous” được đăng trên tờ Economist danh giá (*), tôi tò mò tìm xem có thông tin gì đánh giá về thuốc Bắc thì có bài “Chinese herbal medicines” tuy đã cũ (2002) nhưng uy tín và đủ để phác họa vấn đề mà tác giả cho rằng đây chỉ là cái chop của tảng băng. Ở đây tôi chỉ dịch phần “Những quan ngại trong việc dùng thuốc Đông y”.Võ Văn Danh
(*) https://www.economist.com/news/china/21727945-unproven-remedies-promoted-state-why-chinas-traditional-medicine-boom-dangerous
Pha trộn [với Âu dược]
Hầu hết những tư liệu về độc tính của các loại thảo dược Trung Quốc có liên quan đến các trường hợp sử dụng dược liệu truyền thống Trung Quốc pha trộn với dược phẩm phương Tây. Ở Hoa Kỳ, đôi khi các báo cáo thậm chí nói đến đến các chất liệu dược phẩm không còn được chấp thuận sử dụng cho người. Sự trộn lẫn với các tác nhân như kim loại nặng có thể gây ra nguy hiểm lớn nhất cho những bệnh nhân sử dụng các loại thảo dược của Trung Quốc.
Sự pha trộn các thảo dược [và âu dược] được pha chế nhập khẩu từ Trung Quốc và Đài Loan là rất phổ biến. Trong một số trường hợp, các sản phẩm này là hợp pháp ở quốc gia của họ. Ở những nơi khác, một nhà sản xuất đầy tham vọng hoặc vô đạo đức đã hợp tác với một đại lý dược phẩm để tăng cường hiệu quả rõ ràng của các loại thảo dược đã được chế biến. Ví dụ vô hại liên quan đến việc phổ biến các phương thuốc thảo dược nổi tiếng như thuốc chống cảm lạnh Yin Qiao San, thuốc này đã được pha trộn với acetaminophen. Các ví dụ có hại hơn liên quan đến các loại thảo dược được pha trộn với một số lượng lớn cortisone và / hoặc thuốc chống viêm [được ghi là] không có chất steroid và được bán là thuốc chữa viêm khớp. Khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng sẽ tăng lên vì một số cửa hàng ở các khu phố Tàu ở Hoa Kỳ cũng bán thuốc y sinh học [thuốc Tây] được sản xuất ở Trung Quốc cùng với các dược thảo chữa bệnh đã được chế biến sẵn.
Kết quả của một nghiên cứu về các phương pháp điều trị viêm khớp và thuốc giảm đau được bán trong các tiệm thuốc Bắc và các phòng khám y học Trung Quốc ở Đài Loan cho thấy rằng 30% số thuốc có chứa các chất Âu dược bao gồm acetaminophen, ibuprofen và phenylbutazone.
Tại New York, một số cửa hàng bán thảo dược ở vùng Chinatown đã bán các chất gây nghiện nguy hiểm, bao gồm cả Thuốc Ho của Bà Trân (Madam Pearl's Cough Syrup). Sản phẩm này, có chứa codeine, đã là một đối tượng được quan tâm về quy định ít nhất là từ năm 1988 khi nó xuất hiện trong danh sách được cung cấp bởi Bộ Dịch vụ Y tế California.
Các chế phẩm pha trộn khác được tìm thấy trong các cửa hàng thảo dược, cửa hàng tạp hóa, và qua đường bưu điện, bao gồm các thuốc Black Pills, Chui Fong Tou Koo Wan, và thuốc viên Đầu Bò của Tong Sui. Chui Fong Tou Koo Wan được bán để điều trị bệnh thấp khớp và viêm khớp. Nó chứa, trong số các thành phần khác, phenylbutazone, diazepam, và chì.
Năm 1995, Gertner và cộng sự đã mô tả các ca bệnh liên quan đến 5 bệnh nhân ở Minnesota với các biến chứng từ việc sử dụng các thảo dược để trị bệnh viêm khớp.(5) Trong tất cả trường hợp, các viên thuốc được tìm thấy có chứa diazepam và acid mefenamic, cả hai đều có thể có các phản ứng phụ nghiêm trọng.
Các cơ quan công cộng và cơ quan quản lý như Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm [Hoa Kỳ] ngày càng ý thức được rằng nhiều loại dược liệu thảo dược từ Trung Quốc đã được nhập khẩu bất hợp pháp có chứa các chất của thuốc Tây. Hầu hết các bổ sung này đều không có trên nhãn sản phẩm, làm tăng khả năng sử dụng quá liều hoặc các hậu quả nghiêm trọng khác.
Độc tính và các tác dụng bất lợi
Các tác động bất lợi liên quan đến thảo dược điển hình là do sử dụng lâu dài ở liều lượng không thích hợp, sử dụng một số chất độc cao và phản ứng quá mẫn cảm.
Aconite (cây phụ tử hay cây ô đầu là một loại cây độc) có lẽ là chất được sử dụng rộng rãi nhất trong các chất độc hại cao có trong dược liệu của Trung Quốc. Nhiều dạng thuốc của cây này được bán trong các tiệm thuốc Bắc và được sử dụng trong các toa thuốc được nấu bằng nhiệt, nước và giấm để làm giảm chất độc alkaloid và để loại bỏ bất kỳ độc tính nào. Tuy nhiên, những vật liệu chưa được xử lý thỉnh thoảng vẫn được sử dụng, và nhiều báo cáo về nhiễm độc đã được đưa ra.
Nhiều trường hợp ngộ độc aconite có trong các liệu pháp thảo dược “chaun wu” và “cao wu” đã xảy ra ở Trung Quốc và Hồng Kông. Bệnh viện Astudy tại Hồng Kông giữa năm 1989 và năm 1991 đã xác định 8 bệnh nhân có dấu hiệu ngộ độc từ những chất này, bao gồm buồn nôn, nôn mửa, huyết áp thấp và tim (ventricular extrasystoles).(6)
Nhiều trường hợp ngộ độc có thể chưa được báo cáo, vì vậy những trường hợp này có thể chỉ là cái đỉnh của tảng băng. Chính phủ Trung Quốc quan tâm đến việc kiểm soát việc kê toa aconite.
Thuốc Trung Quốc tên Jin Bu Huan liên quan đến ba trường hợp quá liều ở trẻ em.(7),(8) Trẻ em được nhập viện vì chứng nhịp tim chậm, đe dọa tính mạng và suy nhược hệ hô hấp. Tất cả đều hồi phục sau khi được tiếp nhận và chăm sóc y tế. Sản phẩm này đã được chính thức xóa khỏi thị trường thương mại, mặc dù nó vẫn còn được bán ở New York.
Bảng 2: Rủi ro và tương tác thuốc Tây-thuốc Bắc trong việc sử dụng các loại dược thảo Trung Quốc (xem table 2 trong cái link ghi ở cuối bài dịch)
Một trường hợp nổi tiếng về tính độc tính của thảo dược đã được biết đến như là "bệnh thận Trung Quốc". Bảy mươi phụ nữ là bệnh nhân tại một clinic giảm cân ở Bỉ từ năm 1991 đến năm 1992 đã bị xơ thận kẽ và suy thận giai đoạn cuối. (9),(10). Cây thảo mộc Aristolochia [cây bình vôi] có liên quan đến tổn thương thận. Loài thảo mộc này chứa acid aristolochic, là chất độc đã được thí nghiệm trên động vật dưới dạng chiết và tiêm. Tuy nhiên, cuộc tranh luận vẫn đang tiếp diễn về sự liên quan thực sự của Aristolochia trong khoa học thần kinh.
Mặc dù các loại thảo dược của Trung Quốc được sử dụng phổ biến, nhưng tỷ lệ xuất hiện các phản ứng có hại xuất hiện tương đối thấp. Trong một nghiên cứu tương lai kéo dài 8 tháng của bệnh nhân nhập viện tại hai bệnh viện y khoa chung tại một bệnh viện ở Hồng Kông, chỉ có 3 trong số 1.701 bệnh nhân (0.2%) nhập viện vì các phản ứng phụ đối với dược thảo của Trung Quốc.(11) Các phản ứng này đe dọa đến mạng sống của hai trường hợp (táo tàu gây ra phù dạ dày và chứng hạ kali do chất cam thảo).
Tương tác giữa thuốc Bắc và thuốc Tây
Khả năng phản ứng xảy ra giữa thuốc Bắc và thuốc Tây đã được báo cáo, tuy nhiên các báo cáo liên quan trực tiếp đến thuốc Bắc là rất ít và chưa đủ. Các trường hợp tương tác được nghiên cứu tốt và được hiểu rõ là rất hiếm.
Bảng này cung cấp các ví dụ điển hình về các loại dược thảo Trung Quốc được sử dụng rộng rãi có những phản ứng phụ tốt hoặc có tiềm năng phản ứng thuốc. Sự khác biệt giữa dược thảo và thuốc Tây đơn chất, liều lượng và thời gian sử dụng là rất quan trọng trong việc đánh giá rủi ro. Một hợp chất có chứa cam thảo, cây ma hoàng (ephedra), hoặc thậm chí cây phụ tử (aconite) đã chế biến có ít rủi ro cho bệnh nhân và không có khả năng tương tác ngay với một loại thuốc Tây nào nhất định. Nhưng lượng lớn, chuẩn bị không đúng, hoặc sử dụng lâu dài một hợp chất, tuy nhiên, có thể gây ra vấn đề.
Chăm sóc bệnh nhân sử dụng thuốc Bắc
Xác định liệu bệnh nhân của bạn có đang sử dụng các loại thuốc thảo dược Trung Quốc ở dạng thô (nấu thuốc) hay đã được pha chế có là sự nhạy cảm hay không. Bệnh nhân có thể không muốn cung cấp thông tin này ngay cả khi được hỏi trực tiếp. Đối thoại một cách khuyến khích để tìm là hữu ích. Bạn có thể bắt đầu cuộc điều tra của bạn với một khái quát đầy khích lệ, chẳng hạn như: "Tôi hiểu rằng ở Trung Quốc có rất nhiều loại thảo mộc có thể được sử dụng để điều trị bệnh. Một số trong số đó có thể rất hữu ích. Có bất kỳ loại thảo dược mà bạn thích sử dụng? Bạn có dùng bất cứ loại thảo dược hoặc các loại thuốc nào bây giờ? "
Làm thế nào để tư vấn cho bệnh nhân về sử dụng thảo dược là một vấn đề đánh giá chuyên môn. Trong trường hợp tốt nhất, sẽ có thể liên lạc với bác sỹ đã kê toa và khám phá mọi vấn đề cần quan tâm. Nhiều người, nhưng không phải tất cả, trong các học viên về dược thảo Trung Quốc có thể giải quyết một số vấn đề này. Nếu bệnh nhân đang sử dụng thuốc đã được bào chế, bạn có thể truy cập vào bao bì để đánh giá nội dung, mặc dù thông tin được cung cấp không phải lúc nào cũng đáng tin cậy.
Nhiều bác sĩ lâm sàng chọn con đường đơn giản là khuyên bệnh nhân ngưng hoặc kiểm soát việc sử dụng nó. Mặc dù lời khuyên này dường như là cách tốt nhất để hành động nhưng nó có thể làm giảm chất lượng giao tiếp trong tương lai của bác sĩ với bệnh nhân hoặc với các bệnh nhân khác. Do đó, cố gắng thu thập thêm thông tin và thông báo cho bệnh nhân về cơ sở của lời khuyên của bạn là rất quan trọng. Thông thường, bệnh nhân có thể giúp bạn tìm hiểu thêm về lý do tại sao họ đang sử dụng thảo dược.
Các nguồn lực được liệt kê trong hộp 2 (box 2) cung cấp một bước đầu tiên để trở nên quen thuộc hơn với các khía cạnh của y học thảo dược Trung Quốc. (xem box 2 trong cái link sau)
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1071750/
** Bài này được đăng năm 2002 trên NCBI tức “The National Center for Biotechnology Information” NCBI thuộc Thư Viện Quốc Gia Hoa Kỳ về Thuốc Chữa Bệnh (United States National Library of Medicine), một nhánh của Viện Sức Khỏe Quốc Gia (National Institutes of Health)

Võ Văn Danh dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét