30 thg 1, 2017

Từ mỹ tục “mùng ba tết thầy” nghĩ về chuyện tình nghĩa thầy trò xưa

Trong xã hội xưa, Quân Sư Phụ là ba giềng mối chính chi phối cuộc sống của mỗi con người. Vua là bậc Thiên tử, “thế thiên hành đạo”, có trong tay những quyền hạn tuyệt đối, một lời buông ra người người đều tuân theo răm rắp; Thầy truyền thụ chữ thánh hiền, dạy học trò biết sống như những người hữu ích nhất trong xã hội; còn Cha là đấng sinh thành, lo cho con có những điều kiện tốt nhất để đến trường, và khi lớn lên biết ngẩng cao đầu mà sống. Trong thang bậc xã hội xưa, vị trí người thầy còn cao hơn cả cha mẹ. Song trong đời sống gia đình, nhân những ngày lễ tết, người con có bổn phận báo hiếu trước tiên, “mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy”. Dù sống trong cùng một gia đình hay đã khôn lớn, sống đời sống riêng, đến ngày tết, những người con hiếu thảo cũng dành hai ngày đầu năm cho cha và mẹ, ngày thứ ba còn lại dành cho thầy.
***
Ngày xưa, chuyện học trò rủ nhau đi chúc tết thầy là một mỹ tục trải dài hàng nhiều thế kỷ. Điều mà họ thể hiện chủ yếu là tình cảm nồng nàn, lòng biết ơn đối với người đã có công truyền đạt cho họ sự hiểu biết, dạy cho họ biết sống xứng đáng với cương vị của kẻ sĩ trên đời. Cũng vì vậy mà quà cáp học trò mang theo để tết thầy chẳng có gì đắt giá, thường là một thúng gạo nhỏ, hoặc một cặp gà vịt, đường mứt, bánh trái, hoặc một vài quan tiền. Nhân những ngày đầu năm mới, thầy trò ngồi ôn lại với nhau những vui buồn của một năm cũ, thầy nhớ cái hay cái dở của từng em một, nhắc nhở mỗi em học hành, làm việc tốt hơn trong năm mới. Tình thầy trò thể hiện vào những ngày đầu năm mới là một ấn tượng đậm nét trong tâm khảm các cậu học trò trên những bước đường chông gai trước mắt, và về sau này, dù trôi dạt nơi đâu, lòng người học trò vẫn không quên những người thầy của một thời để chỏm.
Song nói đến tình thầy trò, ngày tết chỉ là một trong những thời điểm đáng nhớ trong năm. Tình sư đệ bàng bạc trong cả cuộc đời đứa trẻ, kể từ cái ngày đầu tiên được cha hay mẹ dẫn dắt đến nhà thầy. Ngày xưa, các thầy đồ thường xuất thân từ một trong hai thành phần trong xã hội: một thuộc hạng hiển nho là những người thành đạt, thường tham gia quan trường, đến khi lớn tuổi, xin về trí sĩ, lấy nghề dạy học làm thú vui cuối đời; hai thuộc hạng ẩn nho, là những kẻ sĩ đỗ đạt nhưng không thích làm quan, những người có tài song không gặp vận may, thi hoài không đỗ, trở về quê nhà mở trường dạy học. Gọi là “trường”, song đó thường là một ngôi nhà như hầu hết nhà cửa của những người dân quê khác. Nơi dạy học của thầy có thể là một chái nhà hay một vuông sân đủ rộng để chứa vài mươi cậu học trò nhiều hạng tuổi tác, từ cậu bé tóc còn để chỏm đến chàng trai hai ba mươi tuổi đời…
Một trong những kỷ niệm đầu đời của người đi học thời xưa là lễ nhập môn. Lễ diễn ra vào một ngày lành tháng tốt nào đó, khi người cha hay người mẹ đưa cậu con trai 6-7 tuổi đến nhà thầy xin thọ giáo. Lễ vật thường là mâm xôi, con gà, be rượu, và cha mẹ cậu học trỏ thường được thầy (và gia chủ trong trường hợp thầy dạy nơi ở trọ) mời ở lại nhâm nhi, nhân tiện bàn về tướng mạo, tính tình của cậu học trò mới.
Trong xã hội xưa, người thầy thực hiện đúng quan niệm “tiên học lễ, hậu học văn”; trong mấy tháng đầu, cậu học trò chỉ được học cách cư xử sao cho hợp với lễ nghi, phong cách, như khoanh tay, cúi đầu, chào hỏi, bẩm thưa… đồng thời làm những việc vặt trong trường như quét sân, quét lớp, mài mực cho thầy. Sau giai đoạn học lễ, cậu học trò mới bắt đầu học chữ thánh hiền.
Tại trường học, thầy thường ngồi trên chiếc giường có trải chiếu hoa, bày biện đủ tiện nghi dành cho một thầy đồ, nào là bút, nghiên, tráp, điếu… Học trò ngồi trên những chiếc phản kê sát nhau, có khi cúi người chép bài trên một chiếc chiếu trải lên nền đất. Để giúp thầy quán xuyến mọi việc, thầy phân công hai anh trưởng tràng: trưởng tràng nội phụ trách mọi việc trong phạm vi trường lớp, và trưởng tràng ngoại phụ trách những việc từ cổng trường trở ra. Các trưởng tràng được sự phụ giúp của giám tràng và một số cán tràng, tùy sĩ số học trò trong lớp.
Việc đền đáp công ơn thầy dạy thường được thể hiện dưới hai hình thức, một là tiền học phí, mỗi năm cha mẹ học trò nộp làm một hay hai lần, cả thảy khoản 4 quan tiền. Nếu thầy dạy học ở một gia đình nào khác thì mỗi năm gia chủ may cho thầy hai quần, hai áo dài, ba áo cộc. Thứ đến là tiền tết thầy vào các kỳ nghỉ trong năm, thường là ba cái tết: tết Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5), nghỉ hơn một tháng để học trò có thời giờ phụ giúp cha mẹ gặt lúa; Tết cơm mới vào tháng 10, nghỉ khoảng một tháng cho vụ gặt, và Tết Nguyên đán, nghỉ khoảng hai tháng. Trong những kỳ nghỉ này, nếu thầy dạy xa nhà thì tùy hảo tâm, cha mẹ học trò có tiền tết thầy để thầy mua sắm và về quê. Các học trò lớn thường kính cẩn tiễn chân thầy, có khi đưa thầy về đến quê nhà bình yên rồi mới quay trở lại.
Bên cạnh học phí, tiền tết thầy, học trò ngày xưa còn có nghĩa vụ đóng góp “tiền đồng môn” là khoản tiền góp khi cha mẹ thầy, vợ thầy, hay chính thầy qua đời. Người có trọng trách lập danh sách đóng góp khoản tiền này là cậu học trò ngày xưa được thầy phân công làm Trưởng tràng nội. Danh sách lập xong, Trưởng tràng ngoại thực hiện việc thu tiền và những học trò cũ của thầy, dù đã làm đến Thượng thư, Tổng đốc, cũng đều phải đóng góp sòng phẳng. Thời đó, trốn thuế triều đình còn được dư luận châm chước, chứ trốn tránh việc đóng góp tiền đồng môn bị xem là hành vi vi phạm đạo lý, vong ân bội nghĩa, không thể tha thứ được.
Dưới triều Nguyễn, ở các làng xã nghèo, nhiều người dân không có tiền đóng góp học phí, thầy đồ dạy học không đủ tiền để sống, triều đình đã đặt ra chế độ “học điền” hay còn gọi là ruộng hương học để lấy hoa lợi hỗ trợ đời sống người thầy. Sự chăm sóc đó, dù không phải là nhiều, nhưng chứng tỏ xã hội luôn coi trọng và nghĩ đến công lao đóng góp của người thầy trong việc giáo dục lớp người trẻ.

***
Trong lịch sử nước ta, nhiều kẻ sĩ khi làm quan luôn giữ lòng tự trọng, khi bất phùng thời, trở về làng quê, thì lấy nghề dạy học làm lạc thú cuối đời. Trong số những người như vậy, không thể không kể đến Chu Văn An (1292-1370). Cụ tên là Chu An, được phong tước Văn Trinh công nên người đời sau gọi là Chu Văn An, đỗ thái học sinh (tiến sĩ) nhưng không chịu ra làm quan, dựng nhà trên gò cao, đọc sách, dạy học trò. Vua Trần Minh tông (1314-1329) nghe tiếng, vời cụ ra làm Tư nghiệp trường Quốc tử giám, dạy Thái tử Trần Vượng (sau là vua Trần Hiến tông) học. Đến thời vua Trần Dụ tông (1341-1369), nhận thấy có nhiều quan lại ỷ thế gần gủi nhà vua coi thường phép nước, cụ dâng sớ xin vua chém đầu bảy kẻ nịnh thần (thất trảm sớ). Chờ không thấy sớ được xem xét, cụ trả ấn từ quan, về núi Chí Linh, dựng nhà tiếp tục dạy học, lấy tên hiệu là Tiều Ẩn. Năm 1370, nghe tin vua Trần Nghệ tông lên ngôi, cụ lúc đó đã 78 tuổi, cũng chống gậy trúc đến chúc mừng, rồi kiếu từ trở về làng, nhà vua ngỏ ý muốn phong chức gì cũng không nhận. Vua Nghệ tông rất tôn kính, sai quần thần đưa về, không lâu sau, cụ mất. Học trò cụ có hàng trăm người, nhiều người làm quan to như Hành khiển Phạm Sư Mạnh và Lê Bá Quát, nhưng khi trở về làng thăm cụ cũng đều phải lạy dưới giường và đứng khoanh tay hầu chuyện cụ. Học trò cụ ai có điều không phải, cụ trách mắng ngay, có khi không cho bước vào nhà. Các đời vua sau nghĩ đến nhân cách của một kẻ sĩ, một người thầy mẫu mực, đã cho thờ cụ trong nhà Văn miếu.
Thời Nguyễn, cụ Võ Trường Toản cũng là một người thầy mẫu mực, sống ẩn dật, mở trường dạy học và học trò cụ nhiều người hiển đạt như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Phạm Đăng Hưng… làm quan đến chức Thượng thư (Bộ trưởng ngày nay), cụ xứng đáng với danh hiệu “Gia Định xử sĩ sùng đức Võ tiên sinh” do chúa Nguyễn Ánh (sau là vua Gia Long) ban cho.
Thầy đã thế, học trò ngày xưa cũng có rất nhiều câu chuyện về tôn sư trọng đạo mà mỗi hành vi vẫn còn có giá trị của những tấm gương trong sáng cho thế hệ ngày nay noi theo. Người ta kể rằng cụ Phan Thanh Giản, phẩm trật lên đến Hiệp biện Đại học sĩ, (tòng) nhất phẩm triều đình, song mỗi khi đi kinh lý gần quê nhà thầy học cũ, cụ luôn kêu lính khiêng võng ghé lại thăm thầy. Võng còn ở cách nhà thầy một quãng khá xa, cụ đã bước xuống, thân hành đi bộ vào nhà thầy. Chỉ một cử chỉ nho nhỏ như thế đủ nói lên tấm lòng của người học trò tôn kính thấy học cũ đến nhường nào!
Đầu tháng 11 năm 1888, sau hơn ba năm sống gian khổ giữa rừng thiêng nước độc ở Quảng Bình để nêu cao ngọn cờ Cần vương, vua Hàm Nghi sa vào tay giặc Pháp. Trong những ngày bị áp giải về cửa Thuận An, ông nhất mực không chịu nhận mình là vua Hàm Nghi. Nhưng bữa nọ, trong đám đông đứng hai bên đường, vua Hàm Nghi nhác thấy bóng dáng người thầy học, liền vội vàng nghiêng mình kính cẩn cúi đầu chào, thà để lộ chân tướng cố tình giấu giếm hơn là thất lễ với thầy học cũ.
Tình thầy trò ngày xưa không chỉ thể hiện ở phương Đông. Ở phương Tây cũng thế. Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Dự bị (nay là lớp 2) kể câu chuyện ông Carnot, người Pháp, làm quan to, khi về thăm quê nhà, đã ghé lại ngôi trường, nơi người thầy dạy ông năm xưa tóc bạc phơ vẫn còn đứng lớp. Ông đã “chạy ngay lại trước mặt thầy giáo, chào hỏi lễ phép mà nói rằng:”Tôi là Carnot đây, thầy còn nhớ tôi không?” Rồi ông ngoảnh lại khuyên bảo học trò rằng “Ta bình sinh, nhất là ơn cha, ơn mẹ, sau ơn thầy ta đây, vì nhờ có thầy chịu khó dạy bảo ta, ta mới làm nên sự nghiệp ngày nay” (trích)

***
Xem như thế, chúng ta thấy rằng tình thầy trò ngày xưa không chỉ thể hiện qua mỹ tục “mùng ba tết thầy” mà còn bàng bạc trong suốt cả năm, không chỉ trong đời học trò mà cả trong những giai đoạn hiển hách nhất của người từng đi học chữ thánh hiền. Cuộc sống hôm nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự thống trị của nền văn minh vật chất, tình nghĩa thầy trò đã ít nhiều phai nhạt, song cái gốc của đạo lý thánh hiền vẫn còn tồn tại dưới những góc nhìn khác. Ngày mùng ba Tết, có thể do sự xa cách về địa lý, những bận rộn, bon chen còn để lại dư vị đắng chát của mười hai tháng mưu sinh, người học trò không đến thăm và chúc tết thầy được, song cái nghĩa thầy trò vẫn luôn hiện diện trong tâm tưởng mọi người, vì đó là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, không thể nào quên ./.


Lê Nguyễn
(Báo Giáo dục & Thời đại số Xuân Đinh Dậu 2017)

Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người và mọi người đang ngồi
Trong hình ảnh có thể có: 2 người, ngoài trời
Trong hình ảnh có thể có: 2 người, mọi người đang ngồi, trẻ em và ngoài trời
Trong hình ảnh có thể có: 3 người, mọi người đang ngồi
Trong hình ảnh có thể có: 3 người, mọi người đang ngồi
Nguồn Fb Lê Nguyễn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét