1 thg 6, 2021

NHỚ....Võ Kim Liên kể,Ngân Triều phóng tác

 Mời quý bạn xem tiếp truyện ngắn Bông Cỏ may để hồi tưởng một thời thơ ấu trường làng. Bào Trai bây giờ đã đô thị hóa, là Thị Trấn Hậu Nghĩa với trên 20.000 cư dân, chưa kể rất nhiều dân nhập cư vì đất lành, chim đậu.


[Bông Cỏ may]
Võ Kim Ngân kể
Ngân Triều phóng tác

Tôi đã trải qua một tuổi thơ hồn nhiên rất đẹp với nhiều kỷ niệm của thuở học trò trường Tiểu học Bào Trai Hậu Nghĩa (Ngày xưa, Trường Tiểu học Bào Trai , viết chữ o như thế nầy). Đó là năm học 1954 – 1955 và 1955 –1956, lúc ở tuổi choai choai 13, 14, 15. Hồi đó, mỗi tuần lễ học sinh miền quê phải đi học 6 ngày. Các ngày thứ hai, thứ tư, thứ sáu là học nguyên ngày, còn những ngày còn lại, học một buổi. Những ngày học hai buổi, học sinh ở xa như chúng tôi phải giở theo cơm đựng trong một cái“mo cơm” làm bằng bẹ tàu cau, ăn trưa, ngay lớp học của mình, hoặc rủ nhau ăn chung từng nhóm, nơi hành lang, lớp học, hoặc dưới gốc cây điệp to ở hai bên cổng trường.
Sau bữa cơm trưa lúc tan học sáng 10h30, chúng tôi thường rủ nhau kéo xuống đám rừng chồi của con Suối Bào Trai (Hậu Nghĩa) để vui chơi. Chúng tôi thường tản ra thành nhiều nhóm thân quen để cùng chơi chung những trò chơi nhỏ, lùng sục, các lùm bụi, học ôn bài…vì buổi chiều vào học lúc 2giờ.
Có nhóm đi hái những trái dại, tìm kiếm những loại trái cây rừng mà có thể học sinh bây giờ, khó lòng biết được. Chẳng hạn như Trái Nhãn Lồng, Trái Nhãn Chài có vị mát miệng; trái Bời Lời, Trái Cò Ke làm đạn bắn ống thụt bằng trúc, đạn nổ lốp bốp vui tai, chia phe bắn vào nhau, chiến đấu rất hồi họp. Trái Nhăn chín màu đỏ như cái nanh heo rừng; lủng lẳng trên những dây leo mảnh mai; ngọt ngọt. Trái Kim Cang từng chùm đính trên một dây gai, lá to bằng bàn tay, ăn lờ lợ, nhớt nhớt. Trái Chùm Gởi từng ổ, trên những cành cây trăm cao, nhỏ như Trái Cùm Nụm ăn vui miệng. Trái Mây Rắc (mây rừng) ăn chát chát; Trái Chùm Mòi, Trái Dấm chua chua. Trái Mua có 5 cánh hồng, khi chín mở thân ra làm hai với năm múi tím đen ngọt ngọt thường có nhiều kiến hôi. Trái Đu Đủ Rừng (trái đ.. chó), trái và lá có nhiều lông tơ trị ho, chát chát, ăn không khéo, mắc nghẹn. Trái Táo Rừng chua ngọt khắp nơi trên những nhánh nhỏ nằm ngang, đầy gai nhọn và nhiều nhất là Trái Cà Na trong mùa mưa, Cà Na Đắng, Cà Na Chua, trái nù mới ngon và trái trăm đen sẫm khi chín, Trăm Móc, Trăm Sắn; mùa trăm chín rộ là sau Tết Nguyên Đán. Những trái to thì có những Trái Bình Bát, chín vàng trên những cành cây khó trèo, tàng cây de ra hai bên bờ suối. Những trái Dứa Gai thơm lừng lựng nhưng không ăn được vì rất ngứa miệng. Những trái Ồi rừng, Ổi Lộn Kiếp , cơm mỏng hạt nhiều, chẳng đứa nào muốn hái ăn và những Trái Điều , Điều Nếp màu vàng và Điều Đỏ trông rất đẹp mắt.
Nhóm con gái chúng tôi thường bẻ những hoa dại xinh xinh. Hoa Dù Cồn đầu có một núm tròn nâu trên một cọng ngồng cao, điểm những cánh hoa vàng nhỏ xíu, mọc bạt ngàn trong các vũng nước. Hoa Cây Nổ màu xanh biếc, cánh hoa mỏng manh, trái từng chùm như chân gà con; khi thả chùm trái khô vào nước, trái nở ra và phát ra những tiếng nổ lách tách như tiếng pháo chuột. Hoa Bí Bái màu trắng thơm thơm đặc trưng.


Hoa Cắt Lồi thân thẳng như một cái roi mây. Trên đầu roi có một búp hoa tròncòn non thì màu xanh, lúc già màu đỏ, kết một chùm trái bằng nắm tay, nở hoa trắng liên tục, hết hoa nầy đến hoa khác, thường có mấy chú ong bầu chui vào hút mật. Hoa Dây Chiều màu xanh tím, gắn trên một thân dây leo có một lớp lông tơ cứng. Hoa Cúc Rừng nho nhỏ như đôi hoa tai, màu cam lấm tấm thơm thơm. Hoa trắng tím của dây Chùm Bao (Lạc Tiên) rất dễ thương; những trái chín tròn màu vàng trong một cái bao lưới trắng, ăn chua chua ngọt ngọt.


Trái chùm bao (Lac tiên)







Bông và Trái Cò Ke












                                                Ống thụt và đạn bằng trái cò ke .

Hoa Bìm Bìm leo lên những bờ thấp, cười duyên


Hoa Mua với 5 cánh hồng, với chùm sợi nhị vàng,
trái chín mở thân ra làm hai…







Bông Cắt Lồi
Hoa Lẹo nhiều bông nhỏ kết thành một chùm to màu đỏ, màu đỏ của miền quê may mắn, thanh bình…
Có mấy bạn thường rút những tàu lá Dứa gai để thắt những chiếc chong chóng dứa, những trái banh dứa để đánh đũa, đôi dép dứa, chiếc đồng hồ đeo tay bằng dứa, cả những sợi dây nịch dứa và chiếc kèn bằng dứa nữa.
Cũng có bạn đi tìm những tổ Ong Lá, mang về làm mồi đi câu cá rô. Bạn bắt tổ Ong Lá rất tài. Chỉ cần một mảnh giấy xếp dọc, rón rén đặt giấy phía dưới tổ ong, châm lửa đốt. Khói lửa bốc cao, bầy ong bảo vệ tổ sợ lửa bay xa, còn trơ tổ ong là bạn thò tay bắt lấy (ha ha... chiều mai mình sẽ câu được một đục cá rô đấy!) Hoặc có bạn cao hứng bứt những dây Bòng Bong, Trái Đủng Đỉnh và Những Sợi Tơ Hồng để kết làm chiếc mão đội làm tướng, huơ tay múa chân, vuốt râu, lắc nghiêng cái đầu mới học được trong tuồng hát bội của đoàn Sơn Đông mãi võ lưu động đi bán thuốc quảng cáo:
-Ải ải…Ta là Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê đây!
-Xin hỏi Tiết Đinh San, cầu Phàn Lê Huê ở đâu vậy?
-Thì ở Cầu Phàn Lê Huê, chớ ở đâu!
-Cầu Phàn Lê Huê chắc là một cái cầu có trồng nhiều cây “lê”.
-Chắc là ở miền “quê” rất xa…
-Bậy nào! Chắc là ở tiệm tạp hóa “Mai Huê” gần trường mình đó mà…
-Ừa hén! Cái cầu thì phải có suối, có sông. Tiết Đinh San ở cầu nào, ở đâu cũng được mà…
-Hát tiếp đi! Đinh San ơi!
-Ải ải…
Có nhóm bạn đằm thắm hơn, rủ nhau leo lên Cây Trăm học bài, nhìn các bạn khác chơi, nhìn trời, nhìn đất, tán chuyện vu vơ rất vui:
-Ước gì mình có cánh như tiên, bay lên trời cao chắc là vui lắm!
-Bạn có cánh, tụi nầy không cánh. Bay một mình, đâu vui! Tui ước cái cây trâm nầy hoá thành Cây Đa, tụi mình bay lên trời như Chú Cuội…Cây nó chở mình bay chầm chậm, nghiêng qua nghiêng lại…bay lên mặt trăng luôn…đêm đêm nhìn xuống thế gian …
-Ý! Không được đâu! Lên trên ấy, làm sao mà về… nhớ nhà, nhớ cha mẹ, bà con…và nhớ đứa em mình nữa…
-Chắc là mình mượn cái thang của Chú Cuội và Chị Hằng leo xuống, về nhà, đi học mà…
-Thôi đi bạn! Tui không chịu đi đâu! Biết sao không! Nếu tụi mình leo xuống, về nhà thì trần gian sẽ bị biến đổi hết. Chuyện Từ Thức lên Tiên mới có một năm mà khi về trần thì ở trần gian đã trải qua mấy trăm năm lận…Coi chừng, tụi mình cũng như vậy à nghen!
-Còn tui thì tui muốn có con ngựa sắt, chiếc roi sắt…như Phù Đổng Thiên Vương …đi đánh giặc Ân xâm lược, cứu nước, cứu dân…
-Hay đó! Cô mình kể, Thánh Gióng đã lên ba tuổi, cứ nằm chờ sứ giả, không thèm nói năng gì hết. Giặc Ân xâm lược nước mình, tiếng nói đầu tiên trong đời của ông là “tiếng nói yêu nước, thương dân”, tiếng nói xin đi đánh giặc cứu nước…
-Giặc phương Bắc điêu trá, hung tàn. Muôn đời, lúc nào lũ nó cũng lăm le thôn tính nước mình. Nước mình tuy nhỏ hơn chúng nhưng vua biết nghe theo ý dân, biết trọng nhân tài, dân mình đoàn kết một lòng… nên một khi chúng nhào vô nước mình kiếm ăn, vơ vét thì đều bị đánh tan tành, thê thảm…
Như Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng, chặt đầu Thái Tử Hoàng Thao. Trần Hưng Đạo đại phá quân Nguyên, chiến thắng Bạch Đằng; Thoát Hoan cùng đường, sợ chết vì cung tên tẩm độc nhà Trần, phải chui vào ống đồng cho tàn quân kéo chạy về nước.
Năm 1789, Hoàng Đế Quang Trung đánh tan giặc nhà Thanh. Tôn Sĩ Nghị hồn xiêu, phách lạc; đại bác nước Nam sao đặt được trên lưng voi (?); quân nước Nam từ dưới đất xông lên, hay trên trời bay xuống; đến nỗi thân hắn không kịp mặc áo giáp, lưng ngựa không kịp thắng yên, không kịp đem theo ấn tín…
Kinh hồn bạt vía, quân giặc khiếp đảm, giẫm đạp lên nhau, cố chạy thoát thân, chạy cong đuôi như chó, hoảng loạn quang quác như gà…, thây phơi thành núi, máu chảy thành sông…
-Các bạn thuộc bài giảng của cô mình khá đấy! Đố bạn nào còn nhớ cô mình giảng một câu đối của sứ nước ta, hạ nhục Vua Tàu Nhà Minh không?
-Ờ ờ…Tui chỉ nhớ vua Tàu nhà Minh muốn sỉ nhục nước Nam trước các chư hầu, mới ra câu đối:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
Sứ nước mình khảng khái liền “chơi lại” ngay:
"Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
-Hóa ra “gậy ông đập lưng ông” nhục nhã trước chư hầu, mới hạ lệnh giết sứ nước mình đó.
-Quả là anh hùng tử, khí hùng nào tử! Cao cả như Trần Bình Trọng: “Ta thà làm ma nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc”.
Trước thời điểm đó khoảng 300 năm, trong bài Bạch Đằng Giang phú 白 藤 江 賦, Ông Trương Hán Siêu [?-1354] cũng đã hạ bút hai câu ngời ngời thiên cổ…
至 今 江 流
終 不 雪 恥
Chí kim giang lưu,
Chung bất tuyết sỉ.
Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
-Bạn con thầy giáo, nói hay quá, chắc là…chắc là sau nầy sẽ “hổ phụ sanh hổ tử”! “Con thầy giáo, sẽ làm thầy giáo”.
-Còn bạn thì không phải là con thầy giáo chắc? “Cái mộng ngành y, nhân đạo cứu người”, có giấu được ai…
-Ha ha…
Khi hơi chán thì chúng tôi ngồi xúm xít dưới những tán cây cao hay những đám cây Mặt Cật, nói chuyện gẫu rù rì. Thời gian như ngừng đọng, lặng im. Thỉnh thoảng có tiếng cất cao, gọi tên nhau ơi ới và nhiều lúc nói cười vang rân.
Dòng suối Bào Trai hiền hòa, không sâu; nhiều chỗ nước ngang đến bụng, có thể đi băng qua được. Tôi rất sợ đi băng qua suối vì suối có rất nhiều đỉa. Muốn biết có đỉa không thì lấy cây khoắn xuống nước, rồi chờ xem. Đỉa Mén lội phăng phăng ngang dọc hàng chục con; mấy con Đỉa Trâu, dài hơn gang tay, màu đen, có sọc vàng hai bên hông, túa ra tìm mồi. Trông nó vẫy đuôi dợn sóng mà ớn lạnh xương sống …
Vậy mà cũng có một nhóm bạn trai gan góc tắm suối. Đứa thì biểu diễn thả ngửa, đứa thì lội ếch, đứa thì lội chó, đứa thì lội đứng, lội sải, lội đập”, đứa thì lặn ngầm; rồi bất chợt chia phe té nước vào nhau, nước văng tung tóe. Chơi chán, từng đứa leo lên bờ, co giò, bịt mũi, nhảy ùm xuống nước, lặn đua... Tiếng la hét hòa lẫn với tiếng cười sằng sặc, in ỏi, bất kể câu nói cảnh giác của ai đó:
- Mấy đứa! Coi chừng đỉa chun lỗ tai !
Vậy mà cũng có một nhóm bạn trai gan góc (!) tắm suối


Đến đây, tôi chợt nhớ đến một chuyện kể, cảnh giác về đỉa mà tôi được nghe hồi đó. Và câu chuyện này, chính là lý do làm cho tôi sợ đỉa.
Ghê quá! Biết nhóm nữ chúng tôi sợ đỉa, còn có một vài bạn “rắn mắt” bắt đỉa để nhát hoặc bắt đỉa “lộn thinh” trong cành cây nhỏ rồi vừa quăng đỉa về phía chúng tôi vừa la to “Đỉa đó”! Không biết phản ứng như thế nào, chúng tôi hét lên “Oái”, rồi xanh mặt chạy thật xa, không dám ngoái lại và để nghe phía sau lưng, một tràng cười dài đắc thắng.
Như vậy đó!

Những buổi đi chơi giữa giờ học thường nhiều màu sắc như vậy đó!
Những cuộc đi chơi rất vui, giúp chúng tôi gần gũi, thân thiết nhau. Chúng tôi không sợ trễ giờ vì có trống trường “kêu gọi” bằng một hồi dài và 3 tiếng báo hiệu trước chừng 5 phút. Chỉ cần chạy một mạch là về kịp lúc sắp hàng vào lớp. Thường thì chúng tôi thả lần về trước, nhưng cũng có vài lần, đang mải mê vui chơi, bỗng nghe trống điểm, phải ù té, hào hễn chạy về trường, quăng bỏ hết dọc đường những “chiến lợi phẩm” của mình đã làm ra hoặc kiếm được, mệt muốn đứt hơi, mà vui.
Những ngày học một buổi, nghỉ buổi chiều, chị Tám rủ chúng tôi đi vào nhà một số bạn bè trong xóm chơi; thường thì chúng tôi kéo về nhà chị ở xóm Gò Cao, khoảng giữa hai làng Đức Lập – Tân Phú Thượng. Chúng tôi ham vui và hiếu kỳ, nên đi ngay, sau khi xin phép gia đình. Nhóm chúng tôi trai có, gái có, ở chợ có, ở xóm khác có; thường khoảng hơn chục bạn, cùng đi theo chị.
Có lúc đi ăn xoài chua, chấm mắm đường tán; đường tán được gọt bằng một cái lưỡi hái; tham ăn xót ruột. Có lần, rủ nhau đi ăn Trái Trăm, Trăm Sắn hoặc Trăm Móc để rồi môi và lưỡi đứa nào đứa nấy đều tím đen. Có khi đi ăn Điều chín; Điều đỏ, Điều vàng ngọt ngọt, chát chát để rồi sau đó, chị gom góp Hạt Điều cũ, nướng mẻ Hạt Điều, xịt khói cháy đen, rồi đập vỏ lấy ruột ăn, béo lạ. Có dạo cùng đi hái Trái Cà Na, trái nù mới chua ngon, ăn với mắm ruốc, chát chát, chua chua đắng đắng rất ngon. Số Cà Na còn lại, chừng một rổ, cả nhóm ăn chán rồi, chị Tám và chúng tôi lấy dao khía dọc thân trái mấy đường, đem ngâm muối với cam thảo, khi đi học chị lại đem theo vào lớp để “nhấm nháp” trong giờ chơi, vui miệng.
Hái Cà Na, vui nhất là cảnh, một bạn trai, làm người hùng, “leo cây hái trái”. Can đảm lắm! Nhưng khi bạn leo lên cây thì cành động. Cành động thì lũ kiến vàng túa ra tấn công. Kiến vàng tấn công cắn bạn đỏ ở tay chân, ở cổ, cả mặt mũi… Lũ kiến đặc nghẹt, mãnh tướng nan địch bầy kiến vàng! Bạn phải lật đật tuột xuống gốc cây như bay, nhảy ào xuống đất, nhăn nhó để các bạn trai khác xúm nhau…phủi kiến. Và buồn cười nhất là bạn đó phải ba chân bốn cẳng chạy ra chỗ khuất; chắc là có mấy con Kiến Vàng xung phong cắn vào…chỗ kín!
Nhớ có lần, để tổ chức bữa trưa, chị Tám đảm đang, phân công người nào việc nấy rất khoa học.
Nhóm nam đi kiếm rau: Rau Muống, Rau Nhút, Rau Dừa, nhổ Bông Súng Đỏ và Bông Súng Chỉ, nổi dưới ao nhà; hoặc nhổ Rau Chóc, Lá Hẹ, Rau Bợ ngoài ruộng nước; hái Rau Tiêu (Rau Càng Cua) ngoài bờ tre; kiếm Rau Dền Cơm, Dền Gai, Dền Điều, (không hái Dền Voi), Rau Sam, Rau Đầu Rìu quanh nhà, bẻ Đậu Rồng, Lá Mồng Tơi ngoài rào và có khi đào trùng câu cá hay câu ếch trong ao. Câu ếch thì rất dễ! Mồi câu là một con Nhái Sọc cở lưỡi câu, ngoài ruộng; Nhái Sọc mới nhạy mồi, (không bắt nhái bầu), mồi móc vào lưỡi câu trê, không quên ngắt một đoạn ngồng Cỏ Mần Chầu làm một cọng lông hồng, để lưỡi câu không dính vào bụi cỏ. Khi câu, cần câu thải mồi hướng vào lùm cỏ ở góc bờ ao, nhấp nhấp… hễ có ếch là ếch nhảy đến ăn mồi liền. Nó rất tham ăn. Nó đã ăn mồi rồi. Đừng vội! Chờ một tí cho nó nuốt mồi vào trong cái miệng rộng của nó xong. Người câu liền giật ngược cần theo hướng ngồi của nó hoặc giật bổng là không sẩy con nào cả. Trong khi đó, có mấy bạn đi móc ếch, hoặc móc cua trong hang cua bằng một cái cần có móc thép làm bằng cây căm xe đạp hay cây kèo dù.
Vào mùa mưa, nước ngập ruộng cày lật, các bạn trai đi nhũi một lát là được một nồi kho: nào là Cá Lòng Tong, Cá Trào Cửng, Cá Ròng Ròng, Cá Trê Con, nào là Cá Chạch Nhỏ, Cá Sặc Rằn, Cá Sặc Trắng, Cá Bãi Trầu, nhiều nhất là Cá Rô Binh Tích hay Cá Rô Hạt Bí và Cua Con. Đôi lúc được rất nhiều Con Bù Niễng, Con Ăn Mày, Con Đòn Gánh, Con Cà Cuống… và cả mấy con đỉa trâu nữa! Bỏ rong rêu, rác rến, chỉ bắt những đối tượng ngon lành…và chuẩn bị chế biến kho quéo...

Nhớ có lần nghe các anh chị công cấy hò đối đáp với nhau:
-Hò ơ ớ…Thương anh em bẹt cẳng ra,
Để anh đứng giữa…đẩy mà một hơi!
-Hò ơ ớ…Sỗ sàng, bất nhã…những lời,
Trông anh thanh tú, coi trời bằng vun!
-Hò ơ ớ…Câu đố tục, đâu phải khùng,
Giảng thanh không đúng… em “tùng xẽo” anh!
-Hò ơ ớ…Vậy sao, thì đáp cho nhanh,
Nếu mà lố bịch ta đành…xa nhau.
-Hò ơ ớ…Đây nè, anh giải đáp mau,
Anh đố cái Nhũi…em đâu có ngờ!
Ai trong sáng, ai lờ mờ?
Cái Nhũi, đi nhũi cá,

(Giải câu đố tục giảng thanh về cái nhũi:
-Thương anh em bẹt cẳng ra; là hai cái gọng nhũi.
Để anh đứng giữa…đẫy mà một hơi; là thao tác đi nhũi cá.)
Chị Tám và chúng tôi chắt ruột cá lớn, gỡ bỏ mai cua lớn, đánh vảy cá lớn, bẻ cánh bù niễng; cà cuống thì bẻ cánh và ngắt mỏ nó; rửa sạch, cho vô nồi kho, ướp muối, ướp nghệ, nước mắm, nửa tán đường, bỏ hành, bỏ tiêu, một ống bột ngọt, năm bảy trái ớt Xiêm đỏ, kho quéo…thơm ngon hết ý…
Nhóm nữ chúng tôi trổ tài làm nước chấm tỏi ớt, lấy nước mắm trong một cái tĩn hay nước chấm tương hột có trộn đường, có món mắm chua cá con do chị làm sẵn và nấu canh rau với tôm khô, bột ngọt hoặc mấy con cá, mấy con ếch câu được trong ao nhà. Nhiều bữa cơm “cây nhà lá vườn” tại nhà bè bạn hoặc nhà chị, thường đơn sơ đạm bạc; “ba tay chụm lại”, mỗi bạn một tay; sao mà ngon miệng lạ lùng.
Tĩn nước mắm đã đóng nắp, chờ phân phối Ảnh Google

Nhớ có bận, các bạn chị Tám và tôi, thả bộ về quê ngoại tôi ở Lục Viên, đi ăn Mây Rắc và Gùi. Trên đường đi, rộn ràng tiếng chim ca, đây đó. Nhạc khúc đồng quê hòa tấu vui tai của những loài chim bay lượn đầy trời; khắp nơi trong các hàng cây, bụi rậm; trên những con đường mòn, đường mồi, chúng tôi đi ngang qua…như những âm thanh ngợi ca đất nước thanh bình, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Kìa, có con Chim Chiền Chiện nào, cứ khoe tài ca hát. Nó bay vút lên trời thật cao rồi nghiêng cánh cho thân mình rơi xuống đất từ từ, đồng thời cất lên một liên khúc dài trong trẻo, ríu rít, nôn nao. (Có đứa bảo nó là Chim Sơn Ca).
Chim Chiền Chiện.








Chim Cưởng
Phía bên hàng tre cao nhà ai, Chim Sáo, Chim Cưởng bay từng đàn, gọi nhau lảnh lót. Tôi cứ hoang tưởng như mình đang ngậm viên ngọc rắn của Công Dã Tràng nghe loài chim nói chuyện. Tiếng Chim Hoành Hoạch cất tiếng “học… học …học… nhớ nghe bạn…nhớ nghe bạn…” bằng một hồi rất nhanh như tiếng nói của Ông Thiện từ bi, trong khóm dây chùm bao rậm rạp, (học mà chơi…chơi mà học!)
Học thời như gấm thêu hoa,
Có văn, có chất mới ra con người.
Tiếng Chim Cu thư thả, giục giã: “cực cứ tu…thì tu”, “cực cứ tu…thì tu” hoặc “tu chửa được…tu chửa được…” như tâm trạng của ai, muốn thoát tục, lánh chốn bụi hồng mà hãy còn tiếc nuối …
*
Ghi Chú
*
[12] Bào Trai: Tôi còn nhớ, đối diện Trường Tiểu Học Bào Trai của chúng tôi là một cái đồn Tây có tấm bảng La poste de BaoTrai, trên mái ngói của một dãy nhà sát lộ của đồn Tây, có vẽ chữ BaoTrai bằng sơn trắng rất lớn; sát bên trường là một cái chợ nhỏ, mặt tiền nhà lồng chợ chó chữ Chợ Bào Trai. (Chữ Bào được viết với chữ o cuối).
Ngày nay, chữ Bàu Trai viết với chữ u cuối, theo từ điển Tiếng Việt.
[13] Suối Bào Trai, nay thành kinh Bàu Trai, có cầu Bàu Trai (xưa là một cái cống, với 3 ống cống to thoát nước ra sông Vàm Cỏ Đông); có ghe thuyền miền Tây và miền Đông lui tới buôn bán những đặc sản theo mùa, như mua lúa, mua đậu phọng; bán tro cho nhà nông; bán cây chiết cành; bán đồ sành sứ…
[14] Ổi Lộn Kiếp: Ổi đã qua tiêu hóa, mọc lại thành cây. Không ai chăm sóc nên trái nhỏ, lắm hột không ngon.
Trái Điều, còn gọi là Đào lộn hột, ngọt ngọt mà chát, nước Trái [15] Điều dính vào áo, giặt không ra. Hột Điều nằm phía dưới trái điều. Tụi con trai thường lấy Hột Điều chơi đánh đáo. Hột Điều nướng, ăn béo và bùi, vị ngon khó quên.
[16] Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê: tên một tuồng hát Bội, viết theo truyện Tàu, khuyết danh: Tiết đinh San chinh Tây. Tiết Đinh San khi ấy gặp Phàn Lê Huê, nữ tướng Tây Liêu có tài cao; nàng si mê Tiết Đinh San, đầu phục nhà Đường, được kết duyên cùng Đinh San. Hai vợ chồng có công trong việc chinh Tây.
“cầu” là tìm, là cầu hôn.
Do các bạn không biết chuyện tuồng…nên đối đáp ngây ngô rất buồn cười như vậy.
[17] Mai Huê là một tiệm tạp hóa lớn ở chợ Bào trai, gần trường Bào Trai. Chị Mai Thị Rôi, lớp nhứt B, là con gái nhà nầy.
[18] Ghi chú[*]Truyện Phù Đổng Thiên Vương,: Đại Việt sử ký toàn thư phần Ngoại kỷ toàn thư, kỷ Hồng Bàng thị ghi chép lại về Thánh Gióng như sau:
Đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông bà lão nghèo chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức thế mà họ vẫn chưa có con. Một hôm bà ra đồng thấy 1 vết chân rất to liền ướm thử xem thua kém bao nhiêu, không ngờ về nhà bà thụ thai và 12 tháng sau sinh được 1 cậu bé khôi ngô tuấn tú.
Kì lạ thay, cậu bé ấy lên ba mà vẫn không biết nói cười, đặt đâu nằm đấy. Gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, có giặc Ân tàn ác sang cướp phá nuớc ta. Vua sai sứ đi tìm người có thể đánh lui được giặc. Ngày hôm ấy, đứa trẻ bỗng nói được, bảo mẹ ra mời sứ giả vào, nói: "Xin cho một thanh gươm, một áo giáp sắt và một con ngựa sắt, vua không phải lo gì". Vua ban cho gươm và ngựa, đứa trẻ vươn vai hóa thành người cao lớn, liền phi ngựa vung gươm ra trận, quan quân theo sau, đánh tan quân giặc ở chân núi Trâu. Con ngựa sắt cũng phun lửa đốt cháy quân giặc. Bọn giặc giẫm đạp lên nhau mà chay cũng không thoát chết. Tan giặc, Thánh Gióng đến chân núi Sóc Sơn, cởi áo giáp, phi ngựa lên trời mà đi.
Để tưởng niệm, Vua sai sửa sang chỗ vườn nhà của đứa trẻ để lập đền thờ, tuế thời cúng tế. Về sau, Lý Thái Tổ phong là Xung Thiên Thần Vương. (Đền thờ ở cạnh chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng).
[19] Cốt truyện Phù Đổng Thiên Vương
Chuyện kể rằng:
Vào đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân to quá, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một thằng bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Ðứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân phương Bắc, xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ. Bèn truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Ðứa bé nghe tin, bỗng dưng cất tiếng nói:
-Mẹ ra mời sứ giả vào đây!
Sứ giả vào, đứa bé bảo:
-Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.
Sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ săt ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng nấu nướng bao nhiêu thức ăn cũng không đủ cho con ăn no, thành thử phải chạy nhờ bà con, hàng xóm. Bà con đều vui lòng gom góp gạo thóc, thức ăn nuôi chú bé, vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, lao vào thiên binh vạn mã toát lên bá khí cường liệt dị thường, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Ðám tàn quân giẫm đạp nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn).
Thánh Gióng dập đầu lạy mẹ cha, tạ ơn công nuôi dưỡng sinh thành rồi lên đỉnh núi Sóc Sơn cưỡi ngựa bay về trời. Vua nhớ công ơn, phong là Phù Ðổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Tượng Phù Đổng Thiên Vương
Tương truyền, Cao Bá Quát khi viếng đền thờ của Phù Đổng Thiên Vương, có cảm đề ,2 câu đối kiệt xuất, được người đời tán tụng -nay còn bút tích (?):
破 賊 癉 嫌 三 歳 晚
騰 雲 由 恨 九 天 低
-Phá tặc đản hiềm tam tuế vãn,
Đằng vân do hận cửu thiên đê.
-Đánh giặc lên ba, e quá muộn,
Tung mây còn bực chín trời gần.
Ngân Triều dịch.
Hiện nay, đền thờ người anh hùng diệt giặc cứu nước vẫn còn ở làng Phù Ðổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư làng mở hội linh đình. Người ta kể rằng những bụi tre màu ngà, ngả nghiêng.rải rác ở huyện Gia Bình vì bị ngựa phun lửa bị cháy sém, mới ngả màu vàng óng như thế, dân làng gọi là những “bụi tre pheo”; còn những dấu chân ngựa sắt ngày xưa, nay đã thành những hồ ao liên tiếp, trải dài. Người ta còn nói khi ngựa phun lửa giết giặc, vòi lửa vô tình đã làm cháy một ngôi làng, cho nên làng đó, dẫu đã được xây dựng từ lâu đời, tục nay vẫn còn gọi là Làng Cháy.
Theo Wikipedia
[20] Điêu trá: Giả dối, gian manh.
[21] Đồng Trụ đến giờ, rêu vẫn lục! (xanh lục)”.
[22] Anh hùng sứ giả nước Nam tên là Giang Văn Minh (chữ Hán: 江文明, 1573 - 1638) tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, là quan nhà Lê Trung Hưng. Ông được mệnh danh là vị sứ thần "Bất nhục quân mệnh" 不 辱 君 命 (Không để nhục mệnh vua) vì đã hiên ngang, bất khuất, thẳng thừng đối lại câu đối của vua Minh Tư Tông nhục mạ nước ta, trong một buổi lâm triều, có đầy đủ sứ bộ các nước. Nhục nhã, bất chấp thị phi, vua hạ lệnh hành hình ông vào năm 1638, thọ 65 tuổi.
Vào thời điểm ông đi sứ, mặc dù nhà Mạc đã bỏ chạy ra Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mang (vừa công nhận nhà Hậu Lê và vừa công nhận nhà Mạc) với mục đích muốn cho cuộc chiến tranh Lê-Mạc cứ tiếp diễn vì hai chế độ đều có chính thống. Khi ấy, Trưởng đoàn sứ bộ ngoại giao của Nhà Hậu Lê là Giang Văn Minh đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) vào năm 1638.
Đến khi triều kiến, Minh Tư Tông , Chu Do Kiểm (tức Sùng Trinh) lấy lý do "Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ" với mục đích là chưa công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê cũng như vẫn “ lập lờ” công nhận nhà Mạc.
Đồng thời, trong buổi lâm triều, Chu Do Kiểm còn ngạo mạn, sỉ nhục nước ta nên đã ra một vế đối như sau:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
銅 宙 至 今 苔 已 綠
Nghĩa là:
Đồng trụ đến giờ, rêu vẫn lục. [màu xanh lục]
Câu này có hàm ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong)
Mộ của Thám Hoa Giang Văn Minh
Trước sự ngạo mạn đó, Giang Văn Minh đã đối lại thẳng thừng như mộ cái tát tay vào mặt kẻ ngạo mạn, hống hách:
Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
籐 江 自 古 血 由 紅
Nghĩa là:
[23] Đằng Giang muôn thuở, máu còn hồng.
Vế đối này không những đối một cách chan chát về ý mà về hình thức nghệ thuật rất sắc sảo, chính xác, từ với từ, còn có ý nhắc lại việc người Việt đã hai lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng. (Máu của giặc đã chết trận tự ngàn xưa, do đại bại ở Sông Bạch Đằng, đời Nhà Ngô, Nhà Trần, hòa nước sông, tuôn ra biển cả, đến bấy giờ vẫn còn màu hồng, như rửa trôi chưa hết.- NT)
Vào lúc đó, câu đối này được xem như là một cái tát “đòn hằn”, và “hạ gục” vào mặt hoàng đế nhà Minh, trước đông đảo văn võ bá quan của Thiên triều và sứ bộ các nước chư hầu. Vua nhà Minh bừng bừng lửa giận, quá nhục nhã, quên mất thể diện thiên triều, bất chấp luật lệ bang giao, đã ra lệnh giết ông bằng cách cho trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem "Sứ thần An Nam to gan, lớn mật đến đâu".(!!!)
Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Tuy nhiên, cuối cùng, khibình tâm, Minh Tư Tông vẫn kính phục một bậc trung thần nghĩa sĩ, hết lòng vì vua vì nước, cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân và cho đưa thi hài ông về nước.
Khi thi hài của Ông về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng đều vô cùng thương tiếc, bái kiến linh cữu và truy tặng Ông chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công, với sắc phong:
使 不 辱 君 命, 可 爲 千 古 英 雄 .
Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng
(tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ).
Cuối cùng Ông được chôn cất tại Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm. Trên cánh đồng này hiện còn có một cái quán (như một ngôi nhà nhỏ) là nơi linh cữu ông đã được quàng lại một thời gian ngày xưa để các quan lại, sĩ phu và nhân dân thương tiếc bái biệt, được gọi là Quán Quàng. Hiện nay, nhà thờ ông ở làng Mông Phụ đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa. ‎
Ở Hà Nội hiện nay có một con đường mang tên Giang Văn Minh, nối với phố Giảng Võ và phố Kim Mã, quận Ba Đình, Hà Nội.
Đằng Giang muôn thuở, máu còn hồng.
Vế đối nhắc lại Sông Bạch Đằng là mồ chôn giặc phương Bắc. Ngô Quyền chôn cọc gỗ lim trên sông Bạch Đằng, đánh tan quân Nam Hán, chém đầu Hoằng Thao, tk X, năm 938; Trần Hưng Đạo cũng chôn cọc gỗ lim trên sông Bạch Đằng đánh tan quân Nguyên, tk XIII, năm 1288. Thuyền giặc bị vướng cọc ngả nghiêng, không nhúc nhích, quân ta thừa thế giết giặc máu nhuộm đỏ cả khúc sông. Các tướng giặc đều bị quân ta bắt sống như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc…
[24] Thiết tưởng từ “ma nước Nam” ở đây hợp lý hơn “quỷ nước Nam”. Ma có vẻ hiền lành, quỷ hung ác. NT
[25] Xưa có một nàng dâu của một gia đình nghèo. Để “làm dâu”, ngày ngày chị phải đi bắt cua, bắt cá quanh suối. Chị nấu cơm, kho cá, luộc rau, nấu canh, chiên cá đều tốt. Sau một thời gian, chị bỗng “dở hơi”, ngẩn ngẩn ngơ ngơ và nhất là lần nào nấu cơm cũng sống cả. Để ý, người mẹ chồng rình xem thì thấy khi cơm sôi, chị lấy nắp vun nồi cơm đặt trên đầu mình một cách liên tục, có vẻ rất thoải mái. Thấy vậy, người mẹ chồng bước ra, quát:
-Mầy nấu cơm gì kỳ vậy? Hèn gì cơm sống!
Thuận tay, đang cầm chiếc đũa bếp, bà gõ vào đầu nàng dâu. Nàng dâu chỉ kêu “Á!” một tiếng rồi ngã lăn ra chết. Bà mẹ chồng hốt hoảng, nhìn xem thì thấy chỗ vết thương tét sọ, đỉa bò ra lúc nhúc. Bà mới vỡ lẽ là nàng dâu đã bị đỉa chun lỗ tai và đỉa đã sinh sôi nẩy nở trong đầu con dâu…
[26] Lộn thinh đỉa: Là lấy 1 que dài hơn đỉa, luồn vào 1 đầu đỉa, cho đến lhi que qua đầu kia. Con đỉa bị lộn ngược, phơi bụng ra ngoài, nắng nóng khô lại và nó sẽ chết tiệt.
[27] Thường dùng bằng cộng cỏ ống, lấy phần ngồng của nó. Để cột một đầu vào đít lưỡi câu, một đầu cắm vừa phải vào mũi nhọn lưỡi câu; khi rê mồi, lưỡi câu sẽ không vướng vào gốc cỏ.
[28] Thải mồi: hất cần câu, đưa sợi nhợ và lưỡi câu theo hướng đã định để câu ếch hoặc cá lóc.
[29] Câu đố tục giảng thanh: Đọc lên nghe tục, giảng ra thì nghe thanh. Như câu đố cái nhũi ở trên. Đọc lên nghe như chuyện làm tình; giảng ra mới biết là cái nhũi.
[30] tùng xẽo là hình phạt thời Trung cổ rất ghê gớm. Tội phạm gian ác bị lột trần, cột vào một trụ đứng. Khi một tiếng trống “tùng” vang lên là bị “xẽo” một miếng thịt…cho đến chết. Hoặc nướng đỏ các loại dao, kiềm…đem áp vào tội nhân, kiểu như vậy.
[31] một loại hũ bằng sứ thô nung, hình quả bóng đá, miệng và đít tóp lại, miệng tròn, có thể đưa bàn tay vào và miệng có trám lại bằng một cái nắp vũm thường bằng sứ thô màu đỏ bằng đất nung, có dung tích chừng 5 lít).
[32] Đường mồi là một con đường đất nhỏ, ăn vào một con đường khác lớn hơn.
[33] Việc học rất trang trọng. Gấm đã quý, được thêu hoa thì càng quý hơn. Có văn là có chữ nghĩa; có chất là có tư cách.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét