7 thg 6, 2021

Dấn thân’ - Nguyễn Thanh Việt

 trích dịch chương 1 cuốn tiểu thuyết mới xuất bản THE COMMITTED

Trích tiểu thuyết “The Committed”


Chương 1 

Chắc tôi không còn là điệp viên hay nằm vùng nữa, dứt khoát tôi đã thành ma. Sao không thành ma khi trên đầu tôi có hai lỗ thủng, từ đó chảy ra dòng mực đen chấm vào đó tôi viết ra những dòng này. Hoàn cảnh trớ trêu thay, chết rồi mà vẫn ngồi viết trong căn phòng nhỏ bé nơi Thiên đường này. Chắc tôi là nhà văn ma, mà nhà văn ma thì đơn giản lắm, tôi có thể chấm ngòi bút vào dòng mực chảy ra từ hai lỗ hổng song đôi, một cái lỗ do tôi khoan ra, lỗ kia là do Bổn, người bạn thân, người anh em kết nghĩa. Hạ súng xuống, Bổn ! Mày chỉ có thể giết tao một lần thôi.

Có thể không. Bởi vì tôi vẫn còn đây, một con người hai mặt, hai cái đầu, một trong hai cái có lẽ vẫn còn nguyên vẹn.  Với hai cái đầu óc, tôi có thể nhìn từ hai phía bất cứ một sự vật nào, trước đây tôi tự cao cho rằng đó là một biệt tài, nhưng bây giờ tôi biết chỉ là nghiệp chướng. Một người mà có hai cái đầu óc thì khác nào một loài dị nhân đột biến ? Thậm chí một quái vật. Đúng thế, tôi xin nhận. Vâng, tôi không phải là một, mà hai. Không chỉ là tôi, mà còn là anh. Không chỉ là tôi, mà là chúng tôi.

Bạn hỏi phải gọi chúng tôi như thế nào, bao lâu rồi chúng tôi vô danh, không tên không tuổi. Tôi do dự không dám trả lời dứt khoát, cái tật của tôi nó thế. Tôi là người có nhiều tật xấu, và mỗi lần phải từ bỏ cái nào – tôi chưa bao giờ tự nguyện làm chuyện ấy – tôi cứ quay trở lại, rên rỉ và ứa nước mắt.

Lấy mấy câu chữ này chẳng hạn. Tôi đang viết ra, mà viết là cái cố tật xấu xa nhất. Trong khi số đông người ta vắt kiệt từ cuộc sống, vật lộn với lương lậu, vừa uống vitamin D vừa phơi nắng, săn tìm một cá nhân đồng loại để sinh con đẻ cái hay giải tỏa nỗi động dục, và khăng khăng không chịu nghĩ tới cái chết, thì tôi lại mất thời giờ với bút và mực thu lu trong một góc Thiên đường, nước da ngày càng trắng bệch, thân xác thêm gầy còm, đầu tóc bốc hơi bực bội, da dẻ vã mồ hôi khổ não.

Tôi có thể nói trên hộ chiếu, tôi mang tên là Vô Danh. Tôi mang cái tên gọi ấy để chuẩn bị tới đây, Paris, mà các thầy giáo Pháp dạy chúng tôi gọi là Thành phố Ánh sáng. Bổn và tôi, hạ cánh xuống phi trường vào ban đêm sau chuyến bay từ Jakarta. Bước ra khỏi máy bay, chúng tôi cảm thấy nhẹ nhõm hẳn, bởi đã đặt chân tới nơi tị nạn, giấc mơ mà mọi người tị nạn đều nung nấu, nhất là những người phải di cư không phải một, mà hai ba lần : năm 1954, khi tôi lên chín : năm 1975 tôi thanh niên và tương đối bảnh trai ; và năm 1979, nghĩa là mới cách đây hai năm. Lần thứ ba phải chăng là cơ duyên, như người Mỹ thường nói ? Bổn thở dài rồi gỡ cái che mắt do công ty hành không cung cấp. Mong rằng nước Pháp sẽ khá hơn nước Mỹ.

Mong ước ấy có vẻ thiếu căn cứ nếu ta đánh giá mỗi nước qua nhân viên biên phòng. Viên chức xét hộ chiếu của tôi mang một cái khẩu trang mới toanh như mọi nhân viên an ninh, anh ta nhìn kỹ tấm ảnh căn cước của tôi rồi nhìn tôi chằm chặp. Khuôn mặt tai tái của y có vẻ không hài lòng khi thấy tôi được ai đó cho phép đặt chân tới đất nước yêu quý của y ta. Anh ta hình như không có môi trên và lấy bộ ria để che lấp sự thiếu vắng ấy. Ông là người Việt Nam, y nói. Đó là những tiếng đầu tiên người ta nói với tôi khi tôi đặt chân lần đầu tiên lên quê hương của cha đẻ.

Vâng ! Tôi là Vô Danh ! Tôi nói với viên công an biên phòng bằng giọng « tây »  nhất, với nụ cười tươi chát chúa. Cha tôi là người Pháp. Tôi cũng có thể là người Pháp chứ ?

Bộ óc quan liêu của y ta xử lý câu nói của tôi một lúc rồi mỉm cười, tôi chắc mẩm, A, mình vừa nói được câu pha trò đầu tiên bằng tiếng Pháp ! Hóa ra y nói : Không… ông … không thể nào… người… Pháp… được. Tên… như vậy… mà… Pháp gì. Rồi đóng triện trên hộ chiếu của tôi, với ngày nhập cảnh, 18/07/81, quăng hộ chiếu lên mặt quầy, mắt nhìn qua vai tôi, hướng tới người đứng sau.

Ra khỏi quầy hộ chiếu, tôi gặp lại Bổn. Thế là chúng tôi đã đặt chân lên xứ sở La Gaule, như cha tôi đã dạy cách gọi tên nước Pháp ở trường giáo xứ. Cũng là điều bình thường khi phi trường mang tên Charles de Gaulle, người Pháp vĩ đại nhất trong trí nhớ cận đại. Đó là người anh hùng đã giải phóng nước Pháp khỏi nạn nazi đồng thời vẫn duy trì ách nô lệ trên đầu trên cổ người Việt Nam. Ôi, mâu thuẫn ! Mùi vị muôn thuở trên thân xác của nhân loại ! Không ai thoát được điều đó, kể cả người Mỹ cũng như người Việt tắm rửa mỗi ngày ít nhất một lần, hay người Pháp ít tắm hơn. Bất luận người nước nào, tất thảy chúng ta đều quen thuộc với cái mùi của những mâu thuẫn cố hữu.

Có chuyện gì vậy ? Bổn hỏi. Lại khóc nữa ?

Tôi không khóc, chỉ rưng rức. Choáng ngợp về tới quê cha.

Giờ thì Bổn quá quen với những cơn nức nở bất chợt của tôi. Anh thở dài, nắm lấy bàn tay tôi. Tay kia, anh xách túi hành lý duy nhất, một cái tay nải rẻ tiền bằng vải, quà tặng của Liên Hiệp Quốc. Cái túi của anh thua xa cái túi bằng da của tôi, mà Claude người bảo trợ cũ của tôi đã mua tặng khi tôi tốt nghiệp trường cao đẳng Occidental Nam California. Claude nói với tôi, mắt rơm rớm, ông già mình đã làm quà cho mình một cái túi y hệt như vậy khi mình rời Exeter đi Yale học đại học. Là một tay CIA, thẩm vấn và ám sát là chuyện thường ngày, nhưng Claude rất ư tình cảm trong quan hệ bè bạn với tôi cũng như trong chuyện vật dụng hàng xịn của nam giới. Tôi cũng gắn bó với cái túi da bằng sự hoài cảm tương tự. Cái túi của tôi, cũng như của Bổn, không lớn gì cho cam, nhưng vẫn còn vơi. Như số đông những người tị nạn, chúng tôi chẳng có gì mấy, dù trong túi chứa đầy ước mong và mộng mị, chấn thương và nhọc nhằn, đau buồn và mất mát, và cả những bóng ma, cố nhiên. Ma thì nhẹ tênh, chồng chất hằng hà sa số cũng vẫn còn chỗ.

Qua khu vực thảm quay hành lý, chúng tôi là những hành khách duy nhất không kéo va ly có gắn bánh xe hay đẩy những cái xe chồng chất hành lý và dự án du lịch. Chúng tôi không phải là du khách, hay kiều dân, hay công dân hồi hương, nhà ngoại giao hay doanh nhân, hay bất cứ loại du khách đàng hoàng nào. Không, chúng tôi là những người tị nạn, và trải nghiệm qua cỗ máy thời gian là chiếc máy bay phản lực quốc tế  không đủ để xua tan một năm trời trần ai trong trại cải tạo hay hai năm trường trong trại tị nạn trên một hòn đảo Indonesia tên là Galang. Thép inox, kính và ngói và ánh sáng rực rỡ của phi trường làm lạc hướng chúng tôi vốn quen với tre nứa, tranh sậy, đất bùn và ánh nến của trại. Chúng tôi đi từng bước chầm chậm, lảo đảo, va đụng vào hành khách để tìm lối ra. Cuối cùng cũng ra tới cổng, hai cánh cửa mở ra, và chúng tôi bước vào sảnh trần cao của khu khách quốc tế đến. Trước mặt chúng tôi là đám đông nhìn chằm chằm vào chúng tôi.

Một phụ nữ gọi to tên tôi. Dì tôi đó, hay nói chính xác, người đàn bà mà tôi nhận là dì. Trong những năm làm điệp viên ở Mỹ cho cộng sản, nằm vùng trong hàng ngũ cà tàng của quân đội Nam Việt Nam lưu vong, tôi vẫn định kỳ viết thư cho bà, bề nổi là kể lể nỗi truân chuyên của kiếp tị nạn, bề chìm là những báo cáo mã hóa viết bằng mực vô hình, tường trình mưu đồ chống cộng phục quốc của một số người. Chúng tôi sử dụng nguồn mật mã chung là cuốn sách của Richard Hedd, Cộng sản Á Châu và Phương thức Hủy diệt kiểu Đông phương, nhiệm vụ của bà là chuyển báo cáo của tôi về cho Mẫn, người anh em kết nghĩa của tôi cùng với Bổn. Tôi chào bà trong lòng cảm thấy nhẹ nhõm và rộn ràng, bởi vì bà biết rằng Bổn không biết, không thể nào biết rằng Mẫn là điệp báo, cũng như tôi đã từng làm điệp viên. Mẫn là người quản lý tôi, và nếu rốt cuộc cũng là người đã tra tấn tôi trong trại cải tạo, phải chăng cùng là ứng với tôi, con người hai mặt hai đầu ? Và nếu dì thực ra không phải là dì của tôi, kẻ hai mặt hai đầu, thì đúng quá rồi còn gì ?

Dì thực ra là dì của Mẫn, dáng dấp y như bà đã mô tả trong lá thư cuối cùng : cao, gầy, tóc đen nhánh. Tức là khác hẳn những điều tôi mường tượng : một người đàn bà trung niên, còng lưng làm nghề thợ may, nhẫn nhục trung thành với cách mạng. Thay vì đó, người thân gần gũi bà ấy là điếu thuốc lá, nếu căn cứ vào bộ dạng của bà, và điếu thuốc bà cầm trong tay. Bà toát ra khói thuốc và tự tin, trong đôi giầy cao gót ngạo nghễ, bà cao bằng tôi, nhưng có vẻ còn cao hơn với dáng người mảnh mai, chiếc váy dệt kim màu xám vừa vặn và mái tóc được búi cao, bộ đồng phục mà bà sẽ mặc hàng ngày. Tôi biết trạc tuổi bà khoảng ngũ tuần, nhưng trông như một người ba mươi, tròm trèm bốn mươi, nhờ tác phong rất đầm và giòng máu nửa Á khiến bà như không có tuổi.

Chúa tôi ! Dì nắm lấy hai vai tôi rồi hôn chùn chụt lên hai má theo kiểu chào hỏi dễ thương của người Pháp, điều mà không bao giờ người Pháp làm với tôi ở bên ta, kể cả cha tôi là người Pháp. Cháu cần phải sắm mấy bộ đồ mới. Và phải đi cắt tóc đi !

Vâng, dì tôi đúng là người Pháp !

Tôi giới thiệu dì với Bổn bằng tiếng Pháp, nhưng nó đáp lời bằng tiếng Việt. Cũng như tôi, Bổn học lycée Pháp, nhưng nó rất ghét tây, chỉ vì tôi mà nó chịu sang đây. Đúng là Pháp đã cấp học bổng cho nó, ngoài ra tuyệt nhiên Bổn không mang ơn nào khác, nếu không kể việc đi lại trên những con lộ mà người Pháp đã quy hoạch, mà điều này khó gọi là ơn huệ, bởi vì đường xá là do nông dân, như gia đình Bổn, phải đi xâu làm đường. Dì tôi chuyển sang nói tiếng Việt, hỏi thăm chúng tôi lộ trình ra sao, gian khổ thế nào, bằng thứ tiếng Việt thuần chất, gần như cổ điển, ngôn ngữ của trí thức Hà Nội. Bổn lặng im. Tiếng Việt của Bổn là ngôn ngữ của nông dân Bắc Bộ, quê chúng tôi, và ngôn ngữ của nông dân vùng ven Sài Gòn. Cha mẹ Bổn đã định cư ở vùng này sau cuộc di cư Công giáo năm 54, cuộc đầu tiên trong ba cuộc di tản của chúng tôi. Có lẽ xấu hổ vì cách ăn nói quê mùa mà Bổn im lặng, hay đúng hơn, vì giận dữ tràn hông. Bất cứ cái gì Hà Nội cũng có thể là cộng sản, mà cái có thể là cộng sản thì chắc chắn là cộng sản, ít nhất đối với một người chống cộng cuồng tín như Bổn. Ngay cả món quà của cộng sản đã giam cầm chúng tôi, lẽ ra phải biết ơn chúng, là bài học này : cái gì không giết được ta, nó làm cho ta mạnh mẽ hơn. Điều đó có nghĩa, Bổn và tôi đã trở thành siêu nhân.

Dì làm công việc gì ? cuối cùng Bổn mới hỏi, khi chúng tôi đã ngồi trong taxi, dì ngồi giữa chúng tôi ở ghế sau xe.

Dì trách móc nhìn tôi, hóa ra cháu không nói gì hết về dì cho bạn. Dì làm biên tập.

Biên tập ? Suýt nữa tôi thốt ra, cũng may là kịp giữ miệng. Lẽ ra tôi phải biết dì làm nghề gì. Để ra khỏi trại tị nạn, tôi phải kiếm ra người bảo lãnh. Thế là tôi viết thư cho dì – lần này không dùng mật mã – bởi vì tôi chỉ quen có dì, người duy nhất không phải là Mỹ. Chắc là bà đã báo cáo cho Mẫn, nhưng thà như vậy còn hơn là tôi phải trở lại Mỹ, là nơi tôi đã gây ra những tội ác tuy không bị truy tố nhưng không làm tôi tự hào chút nào.

Dì nói tên nhà xuất bản mà tôi chưa hề nghe tới. Dì sống bằng sách, dì nói. Đa phần là truyện và sách triết học.

Tiếng ực trong cuống họng của Bổn cho thấy anh không đọc gì ngoài sách giáo khoa quân đội, những tờ báo lá cải, và mấy mẩu giấy dặn dò mà tôi dán trên tủ lạnh. Có lẽ Bổn sẽ thoái mái hơn nêu dì làm nghề thợ may. May sao tôi đã không nói gì với Bổn về dì cả.

Dì muốn các cháu kể cho nghe những gì đã phải trải qua, dì nói. Trại cải tạo, trại tị nạn. Các cháu là tù cải tạo đầu tiên mà dì gặp đấy !

Dì ơi, xin để bữa khác đi, tôi nói. Tôi không nói với dì về bản tự kiểm điểm mà tôi  đã viết trong cảnh cải tạo khổ nhục, bản tự kiểm điểm mà tôi cất giấu trong lớp đáy bí mật của cái túi da, cùng chỗ với cuốn sách Hedd rách mướp, giấy ngả màu vàng. Tôi cũng không hiểu tại sao tôi cất giấu như vậy, vì Bổn là người cuối cùng muốn đọc nó, anh hoàn toàn không thèm biết là có hay không. Cũng như tôi, Bổn đã bị tra tấn, bắt buộc phải viết kiểm điểm nhiều lần trong trại cải tạo ; chỉ khác là anh không biết rằng Mẫn, người anh em kết nghĩa, là chính ủy của trại giam. Làm sao biết được khi chính ủy là người không mặt ? Bổn chỉ biết rằng, anh nói, một lời thú tội do cưỡng bức chỉ đơn giản là lời dối trá. Như hầu như mọi người, anh tin rằng những lời dối trá, dù có nhắc đi nhắc lại bao nhiều lần đi nữa, cũng không bao giờ trở thành sự thật. Còn tôi, thì cũng như cha tôi, ông linh mục, tôi thuộc loại người nghĩ ngược lại.


Đoạn trích này dịch từ nguyên tác đăng trên The New York Times ngày 2 tháng 3.2021

Bản dịch của Nguyễn Ngọc Giao


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét