22 thg 5, 2021

Về Bài Thơ "GIẢ VỢ ĐI LÀM QUAN" Của cụ Phan Thanh Giản-- Ngân Triều

 Mời qúy bạn đọc lại một bàì thơ xưa, "Giã vợ đi làm quan”, Tác giả Phan Thanh Giản; Lời bình Ngân Triều Hậu Nghĩa.

Tôi còn nhớ năm học lớp Đệ Thất (1956-1957), Ba Má tôi đưa tôi lên học Trường Trung Học Lê Văn Trung, Tây Ninh, ở trọ nhà một người bà con; cũng như nhiều anh chị khác ở Hậu Nghĩa; đất thánh Cao Đài Tây Ninh hiền hòa và Trường Trung Học Lê Văn Trung bấy giờ gồm những bậc Thầy Cô danh tiếng và chi phí ăn học phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình.
Nhớ có lần trong giờ Giảng Văn, lần đầu tôi được nghe Thầy Nguyễn Văn Luật, giảng một bài thơ rất hay trong sách Giảng Văn lớp Đệ Thất của Giáo sư Phan Ngô. Đó là bài thơ “Giã vợ đi làm quan” của Cụ Phan Thanh Giản.
Nhớ nhớ, quên quên cũng hơi nhiều, nay xin được cùng quý bạn, đọc lại một bài thơ xưa, cách nay 187 năm (2013-1826)...
Bài thơ
Giã vợ đi làm quan
Phan Thanh Giản

Từ thuở vương xe mối chỉ hồng,
Lòng nầy ghi tạc có non sông.
Đường mây cười tớ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng.
Ơn nước, nợ trai đành lỗi bậu,
Cha già nhà khó cậy nhau cùng.
Mấy lời dặn nhủ khi lâm biệt,
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hỡi lòng.
*
Bản chữ Nôm, Ngân Triều soạn
啫 婦 𠫾 濫 官
潘 清 簡
自 課 𥿁 𦀺 䋦 𥿗 紅
𢙱 尼 記 昨 固 𡽫 滝
塘 𩄲 唭 伵 歆 搈 𨇒
帳 栁 傷 埃 𠹾 沒 𨉓
恩 渃 嫧 𤳆 停 耒 倍
吒 𦓅 茄 苦 𢚁 饒 共
買 唎 吲 喻 欺 臨 别
浪 𢖵 浪 悁 𢙱 唉 𢙱

Bài thơ trên được sáng tác trong lúc từ giã vợ, chuẩn bị lên đường ra kinh kỳ làm quan, (Có thể được sáng tác vào năm 1826, lúc Phan Thanh Giản 30 tuổi), biểu đạt lời từ giã ân tình với vợ trước lúc ra đi và nỗi lòng của tác giả.
Sơ lược tiểu sử cụ Phan Thanh Giản (1796-1867)
[1].Cụ Phan Thanh Giản 潘 清 簡, (1796 – 1867)
Hình chụp tại Paris năm 1863
nhân dịp ông dẫn đầu sứ bộ sang Pháp, xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ
Phan Thanh Giản潘清簡; 1796 - 1867), tự Tĩnh Bá 靖伯, Đạm Như (淡如), hiệu Lương Khê 梁谿; biệt hiệu Mai Xuyên 梅川 là một danh sĩ, một đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

[2]. Thân thế và sự nghiệp

Phan Thanh Giản xuất thân trong một gia đình nghèo khổ. Tương truyền tổ phụ Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tập, hiệu Ngẫu Cừ, sống thời nhà Minh . Sau khi nhà Minh bị nhà Mãn Thanh tiêu diệt, Phan Thanh Tập di cư sang phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (Việt Nam). Nơi đây ông cưới vợ tên Huỳnh Thị Học, sinh được một trai tên là Phan Thanh Ngạn tục gọi là Xán.
Năm 1771, gia đình ông Ngạn vào Nam tạm cư ở Thang Trông, thuộc tỉnh Định Tường Sau đó lại dời về Mâng Thít, trấn Vĩnh Thanh (thuộc Vĩnh Long ngày nay), rồi lại dời về ở huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, cũng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Cuối cùng ông Ngạn đến lập nghiệp tại thôn An Hòa, làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thạnh (nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre).
Ở đây, ông cưới người vợ tên Lâm Thị Bút. Ngày 11 tháng 11 năm 1796, bà hạ sinh được một trai tên Phan Thanh Giản. Năm Phan Thanh Giản lên 7 (1802), thì mẹ qua đời, cha cưới người vợ nữa tên Trần Thị Dưỡng để có người chăm sóc con. Bà mẹ kế này rất thương yêu con chồng. Đến tuổi đi học, ông theo học với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi.

Năm 1815, vì sự cáo gian của kẻ có thù riêng với gia đình , cha Phan Thanh Giản lúc ấy đang làm Thủ hạp (một viên chức nhỏ), phải ngồi tù.
Nóng lòng vì cha bị hàm oan, ông đệ đơn lên Hiệp trấn Lương (không rõ họ) ở Vĩnh Long xin được thay cha vào tù. Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo, viên quan này đã cho ông ở gần nơi cha bị giam cầm, để vừa trao giồi kinh sử, vừa có cơ hội thăm cha mỗi ngày . Sau khi cha được mãn tù, nghe lời Hiệp trấn Lương, Phan Thanh Giản ở lại Vĩnh Long để tiếp tục học và chờ đợi khoa thi. Tại đây, ông gặp một người đàn bà nhân hậu tên Ân. Bà này đã giúp ông tiền và cơm, áo...để tiếp tục theo đuổi việc đèn sách.
[3]. Ra làm quan

Chân dung Cụ Phan Thanh Giản (Tranh truyền thần)

Năm 1825, ông đậu Cử nhân khoa Ất Dậu. Sau đó một năm, ông đậu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826), vào năm 30 tuổi. Ông là người đậu Tiến sĩ khai khoa (đầu tiên) ở Nam bộ.
Từ đấy, ông làm quan trải ba triều, là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha đổ bộ và tấn công tại cửa biển Đà Nẵng rồi lần lượt đánh chiếm các tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Ông Phan Thanh Giản với vai trò là Chánh sứ và Lâm Duy Hiệp là Phó sứ được cử đi điều đình với Pháp, sau đó đại diện cho triều đình Tự Đức ký kết hiệp ước hòa bình và hữu nghị Hòa ước Nhâm Tuất ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn.
Hiệp ước gồm 12 khoản, theo đó, ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn (Côn Đảo) được nhượng cho Pháp (Khoản 3 Hiệp ước); triều đình phải trả cho Pháp và Tây Ban Nha một khoản bồi thường chiến phí là 4 triệu piastres trong 10 năm, mỗi năm 400.000 đồng (quy ra bạc là 288 nghìn lạng - Khoản 8 hiệp ước); đổi lại, người Pháp sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình Huế, nhưng kèm theo điều kiện là triều đình phải có biện pháp chấm dứt các cuộc khởi nghĩa chống lại người Pháp ở các tỉnh (Khoản 11 hiệp ước). Do hành động này mà dân gian có câu truyền "Phan Lâm mãi quốc, triều đình thí dân" Theo nhà sử học Phan Huy Lê, nguồn gốc và xuất xứ của câu này chưa được làm rõ, theo ông câu này không thấy ghi chép lại trong những tác phẩm viết về Trương Định của những tác giả đương thời, như Nguyễn Thông.
Tuy việc thương nghị với Pháp, vua Tự Đức có cho ông tùy nghi tình thế mà định đoạt nhưng về việc cắt đất, nhà vua có căn dặn Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ráng sức chuộc lại ba tỉnh với giá 1.300 vạn lạng, còn nếu phía Pháp đòi cắt đất luôn thì kiên quyết không nghe, nhưng Phan Thanh Giản đã phải cắt đất lại còn bồi thường chiến phí. Do đó mà hai ông khi trở về đã bị quở trách nặng nề .
Việc chuộc ba tỉnh không thành, Phan Thanh Giản bị cách lưu làm Tổng đốc Vĩnh Long, nhưng rồi lại được cử làm Chánh sứ (Phó sứ là Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản) sang nước Pháp để điều đình một lần nữa về việc chuộc lại ba tỉnh miền Đông (1863), nhưng cũng không đạt được kết quả. Năm 1865, ông được phục chức Hiệp biện đại học sĩ, Hộ Bộ thượng thư, sung Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) và được tha tội cách lưu.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, Pháp đánh chiếm Vĩnh Long (vốn đã được trao trả triều đình Huế ngày 25 tháng 5 năm 1863), yêu cầu ông gửi mật thư cho thủ thành An Giang và Hà Tiên buông súng đầu hàng. Trước sức mạnh áp đảo của Pháp về mặt quân sự, biết thế không thể giữ nổi, để tránh đổ máu vô ích, Phan Thanh Giản đã quyết định trao thành, không kháng cự, với yêu cầu người Pháp phải bảo đảm an toàn cho dân chúng. Thế là chỉ trong 5 ngày (20-24 tháng 6 năm 1867), Pháp chiếm gọn ba tỉnh miền Tây không tốn một viên đạn. Sau khi thành mất ông tuyệt thực suốt 17 ngày, rồi uống thuốc độc tự tử vào ngày 4 tháng 8 năm 1867, hưởng thọ 72 tuổi.
Đền thờ Phan Thanh Giản hiện ở ấp Thạnh Nghĩa, xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, Bến Tre. Và từ rất lâu, nhân dân ở vùng núi Ba Thê, thuộc huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang vẫn coi ông là một vị thần Thành Hoàng. Ngoài ra ông còn được thờ tại Văn Thánh Miếu Vĩnh Long
[4]. Nhận định về Phan Thanh Giản

Mộ Cụ Phan Thanh Giản

Phan Thanh Giản được nhiều người kính trọng vì tính cương trực, khẳng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm . Tuy nhiên, trong cơn nước biến, thái độ ôn hòa của ông khiến không ít người đã phàn nàn. Tháng 11 năm 1868, vì làm mất Nam Kỳ, triều đình Huế đã xử ông án "trảm quyết" (nhưng vì chết nên được miễn), lột hết chức tước và cho đục bỏ tên ông ở bia tiến sĩ. Mãi đến 19 năm sau (1886) ông mới được vua Đồng Khánh khôi phục nguyên hàm Hiệp tá đại học sĩ và cho khắc lại tên ở bia tiến sĩ. .

Ngược lại, cũng có nhiều trí thức đương thời đã tỏ lòng thông cảm cho ông. Như Nguyễn Thông đã từng dâng sớ lên vua Tự Đức để giải bày nỗi oan cho ông. Và nhà thơ đương thời Nguyễn Đình Chiểu cũng đã tỏ thái độ thương tiếc, trân trọng ông qua bài thơ điếu:
Minh tinh chín chữ lòng son tạc,
Trời đất từ nay mặc gió thu.
Trong bài " “Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh”, một lần nữa Nguyễn Đình Chiểu lại nêu cao tinh thần yêu nước của Phan Thanh Giản:
“Phải trời cho cán quyền phá lỗ, Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh
Ít người đặng xem tấm bảng phong thần Phan học sĩ hết lòng mưu quốc” .

Hai con trai của ông, Phan Tôn (1837 - 1893), Phan Liêm (1833 - 1896), nổi lên chống Pháp tại tỉnh Vĩnh Long.
Một sĩ quan Pháp là Reunier, người đã từng tham gia chiến tranh ở Trung Quốc và Nam Kỳ, đã nhận xét về ông như sau:
“Sống trong 4 tháng gần vị lão thành cao thượng ấy, chúng tôi có thể đánh giá các đức tính của ông ta...trong thời gian vượt biển này (chuyến đi sứ sang Pháp) ông không ngớt được khuyến khích bởi lòng nhiệt thành ái quốc của ông, và thúc đẩy bởi nguyện vọng thực hiện được công chuyện hữu ích cho nước nhà”...[6]
Năm 1963, hành động giao nộp ba tỉnh miền Tây, được Trần Huy Liệu đem ra bàn luận, và đã kết tội ông là kẻ "bán nước" .
Sau 1975, nhiều đường phố ở miền Nam Việt Nam mang tên Phan Thanh Giản đã bị đổi thành tên khác.
Cho tới những ngày đầu năm 2008, Viện Sử học Việt Nam mới thống nhất kết luận rằng :
"Phan Thanh Giản là người nổi tiếng về đạo đức, có nhiều đóng góp trong lịch sử dân tộc; nên đề nghị tôn vinh ông, cho khôi phục, tôn tạo những di tích và những gì gắn liền với ông";
và nhận định nầy đã được các giới có thẩm quyền chấp thuận...
Trong sách Đi & ghi nhớ của Sơn Nam (xuất bản năm 2008), một lần nữa, nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản lại được đề cập trong một đoạn viết như sau:
Hồi xưa, lúc còn nhỏ, tôi (lời thuật của một giáo viên lớn tuổi đi cùng với Sơn Nam) được dạy cẩn thận, khi đi ngang qua miếu Văn Thánh, học trò phải giở nón, cúi đầu để chào ông Phan. Chào ông Phan, (được xem như) là lời thề rửa hận cho ông, chớ không phải để bắt chước ông...
Người có công nghiên cứu về Phan Thanh Giản là Lê Thọ Xuân, đăng báo Đồng Nai đâu từ năm 1931...với những chi tiết thú vị. Tuy làm quan to nhưng ông tự xem mình như người dân thường ở nông thôn, đối xử như người bình dân, không bao giờ phô trương quyền lực.

Xin đề nghị: Trong chương trình Sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông, đủ lý đủ tình...Ông đã để lại cho đời sau một chút gì khó quên, khó xóa nhòa, gọi là tâm linh, phóng khoáng, thơ mộng.
Tác phẩm
Phan Thanh Giản là một nhà văn lớn với nhiều tác phẩm giá trị.
• Lương Khê thi thảo
• Lương Khê văn thảo
• Sứ Thanh thi tập
• Tây phù nhật kí
• Ước Phu thi tập
• Tích Ung canh ca hội tập
• Sứ trình thi tập
Việt sử thông giám cương mục (Chủ biên)
• Minh Mạng chính yếu (Chủ biên).
• Thoái thực ký văn 退 食 記 聞
• Giá viên thi văn tập 蔗 園 詩 文 集
• Tây phù thi thảo 西 浮 詩 草 (sáng tác lúc đi sứ sang Pháp)
*.
Sách tham khảo
• GS. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển(tập 2). Nxb. Hồn thiêng, Sài Gòn, 1966.
• Nguyễn Huệ Chi, trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb. Thế giới, 2004.
*
[5]. Lời bình: Ngân Triều:
Trước hết, xin đọc lại hai câu đề: Hồi tưởng và tỏ lòng:
Từ thuở vương xe mối chỉ hồng,
Lòng nầy ghi tạc có non sông.
自 課 𥿁 𦀺 䋦 𥿗 紅
𢙱 尼 記 昨 固 𡽫 滝
“Hồi tưởng” là nhớ lại những sự việc đã qua. “Mối chỉ hồng” là duyên nợ vợ chồng đã được định trước bởi Ông Tơ xe duyên ,(Nguyệt Lão), hay chuyện xích thằng (sợi chỉ hồng):
Chuyện xích thằng 赤繩傳 là chuyện sợi chỉ đỏ mà “nguyệt hạ lão nhân” 月 下 老 人 ông già dưới trăng, xe duyên cho các cặp trai gái trên thế gian đẹp duyên giai ngẫu, thành vợ, thành chồng.
“Ghi tạc”: Ghi là lưu giữ một nội dung, một kỷ niệm nào đó bằng dấu hiệu, cách riêng hay chữ viết. Tạc: tạo ra một hình dạng ba chiều, hình khối thẩm mỹ. Ghi tạc là khắc sâu trong tâm trí, mãi mãi không bao giờ quên. “Non sông”, núi và sông, tiêu biểu cho mối tình bền vững như núi, dài như sông.
Hai câu đề ý nói :
Nhớ lại chuyện đôi ta đã thành duyên giai ngẫu, chuyện tơ duyên trăm năm đó, lòng nầy xin ghi tạc mãi mãi cùng non sông.
Sang 4 câu thực-luận: Những lý do phải xa nhau, thương người ở lại và dặn nhủ:
Đường mây cười tớ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng.
Ơn nước, nợ trai đành lỗi bậu,
Cha già nhà khó cậy nhau cùng.
塘 𩄲 唭 伵 歆 搈 𨇒
帳 栁 傷 埃 𠹾 沒 𨉓
恩 渃 嫧 𤳆 停 耒 倍 (咆)
吒 𦓅 茄 苦 𢚁 饒 共
“Đường mây” chữ Hán là “vân lộ”, chỉ đường làm quan, khởi đầu từ việc thi đỗ. “Dong ruổi” hay rong ruổi là mãi đi trên con đường dài cho mục đích nhất định. “Trướng liễu ”, bức màn che cửa phòng người con gái ngày xưa, hoặc bức màn có thêu hoặc vẽ hình cây liễu. Phải chăng tác giả đã thay lời cho vợ mình, vợ chồng còn trẻ trung, phơi phới Xuân tình ...mà phải cách xa:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
“Nợ trai” Chữ Hán là “nam nhi trái” 男 兒 債 “cái nợ của người con trai ở đời” do tích ngày xưa bên Tàu,mỗi khi sinh con trai, phải dùng cây cung bằng nhánh cây dâu, lấy 6 cộng cỏ bồng làm tên bắn đi 6 hướng, cầu mong cho đứa bé khi lớn lên có chí vẫy vùng, tung hoành ngang dọc của người con trai thời phong kiến.
“Bậu” ( 倍), phương ngữ, lời xưng hô thân mật của chồng gọi vợ hoặc người con trai gọi người con gái. Người con trai tự xưng mình là “qua”, 𦨜
Ví dầu bậu (倍)đó qua (𦨜)đây,
Chẳng cho qua lại một giây giải sầu.
(Ca dao Nam Bộ)
Hay là:
Ví dầu tình bậu (倍) muốn thôi,
Bậu gieo tiếng dữ, cho rồi bậu (倍) ra.
Ca dao Nam Bộ
Nàng đừng cười ta mải miết theo đường công danh. Ta vẫn thương nàng phải chịu lạnh lùng, phòng loan lẻ bóng. Vì phải đáp đền ơn nước, phải trả nợ với núi sông, nợ trai, ta đành phải lỗi hẹn với nàng.
Xin nàng hãy phụng dưỡng phụ thân, “cha già”, gia cảnh hàn vi, “nhà khó” ta xin nhờ nàng giúp đỡ thay ta vậy, “cậy nhau cùng”.
Cặp thực - luận đối nhau thật hoàn chỉnh, ý thơ rất chân thực, thiết tha, hàm súc. Một câu nói về mình, một câu nói về người vợ, cụ bà khi ấy, chắc là rất xinh đẹp, tần tảo, đảm đang.
Việc tuân hành lệnh vua truyền, quả là một việc của tổ quốc giao phó, một việc chẳng đặng đừng:
“Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá nào!”
(CPNK – Đoàn Thị Điểm – câu 11,12)
Vậy nàng hãy thông cảm cho ta!
Hai câu kết: Nỗi lòng tác giả:
Mấy lời dặn nhủ khi lâm biệt,
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hỡi lòng!
買 唎 吲 喻 欺 臨 别
浪 𢖵 浪 悁 𢙱 唉 𢙱
“Dặn nhủ”, nói lên những điều cần thiết để làm theo bằng một thái độ ân cần, tha thiết.
“Lâm biệt” , 臨 别 là sắp sửa rời xa nhau, có nghĩa như lâm hành 臨 行, trong lúc chia ly:
Thuở " lâm hành" oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
(CPNK – Đoàn Thị Điểm, câu 125-128)
Thôi thì ta ra đi, nàng ở lại nhà. Những lời "dặn nhủ", xin nàng chớ quên.
Người ra đi tuy tỏ ra rất khẳng khái nhưng người đọc cảm thấy có chút gì đó rất lưu luyến và rất mực ân tình đối với người ở lại. "Lòng nầy" ở câu 2 (tác giả) và "lòng hỡi lòng", câu cuối (người vợ hiền), chứa chan những tình cảm đằm thắm trong tình nghĩa vợ chồng.
Nói về mình không phải dễ, nhưng Cụ Phan Thanh Giản đã thể hiện những sâu kín của lòng mình. Những lời thơ đời thường, gợi tả như thế, thật là những lời lẽ của một nhân cách đôn hậu, ân tình.
Ngân Triều Hậu Nghĩa


Ghi chú theo foot notes:
Ba tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia định và Định Tường; Ba tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Đó là lục tỉnh Nam kỳ. Thời thuộc Pháp, Nam kỳ được chia thành 21 tỉnh: Gia Định, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Trà Vinh, Sa Đéc, Bến Tre; Long Xuyên, Tân An, Sóc Trăng, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Biên Hòa, Mỹ Tho; Bà Rịa, Chợ Lớn, Vĩnh long, Gò Công, Cần Thơ, Bặc Liêu, Cap Saint Jacques. Ghi theo ba câu thơ dễ nhớ:
Gia Châu Hà Rạch Trà Sa Bến,
Long Tân Sóc Thủ Tây Biên Mỹ,
Bà Chợ Vĩnh Gò Cần Bạc Cấp.
Phan Thanh Giản (1796 – 1867). Trang chủ chính thức tỉnh Vĩnh Long. Truy cập ngày 6 tháng 3, năm 2008.
^ Theo GS. Trịnh Vân Thanh, sách dẫn bên dưới. Còn website tỉnh Vĩnh Long thì cho biết: "Phan Thanh Ngạn, đang làm thủ hiệu Phòng Công chánh Vĩnh Long bị lỗi vì chuyện thuế má phải chịu một năm tù"
. ^ Tập san Sử Địa, số chuyên khảo về Phan Thanh Giản, tr 914.
Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước; triều đình bỏ dân chúng.
.^ Năm 1852, Phan Thanh Giản được vua Tự Đức ban thưởng một tấm kim khánh trên khắc 4 chữ: "Liêm, Bình, Cần, Cán"
Theo Đại Nam thực lục, t.37, Hà Nội 1997, tr.223, 225.6.
Tường Chân (1 tháng 5 năm 2005). “Xuân thanh bình đầu tiên và mãi mãi”. Báo Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2009.9.
Nguyên văn bài điếu Phan Thanh Giản của Nguyễn Đình Chiểu:
Bài điếu thứ hai là thơ Nôm:
Non nước tan tành hệ bởi đâu?
Dàu dàu mây bạc cõi Ngao châu
Ba triều công cán đôi hàng sớ
Sáu tỉnh cương thường một gánh thâu
Trạm Bắc ngày chiều tin điệp vắng
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu
Minh tinh chín chữ lòng son tạc
Trời đất từ nay mặc gió Thu.
nguồn: Phạm Thị Hảo
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 463
Có tài liệu ghi câu cuối là: Trời đất từ nay “bặt” gió Thu.
Mặc gió Thu, chắc là hợp lý vì Gió Thu là gió từ phương Tây, ám chỉ giặc Tây. Suy ra, trời đất từ nay mặc cho gió Thu; mặc cho giặc Tây hoành hành.
Câu trên Câu trên ca ngợi tướng quân Trương Định và đau lòng trước sự hy sinh của ông, trước sự thất thế của nghĩa quân.
Câu dưới là khen Phan Thanh Giản với ít nhiều chê bai. (theo Phạm Thị Hảo, sđd bên trên.
^ “Con Đường Cổ Thụ”. Việt Báo. 27 tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2009.10.
9. ^ Xem thêm11. ^ Sơn Nam, Đi & ghi nhớ, Tạp chí Xưa & Nay – Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2008, tr. 152-153.
Tích Vi Cố đời Đường (618-907), một nho sinh tài hoa lỗi lạc. Nhân đi dạo trong một đêm trăng sáng, chàng gặp một ông già đang xe những sợi chỉ đỏ, bỏ vào trong một quyển sách thật to. Thấy lạ, chàng liền lễ phép hỏi cớ sự, mới biết ông lão là một vi thần định trước nhân duyên cho trai gái ở thế gian… Thật sững sờ khi biết mình sẽ có một người vợ, hiện là con gái của lão ăn mày mù dưới chợ. Một bé gái, khoảng 3 tuổi xấu xí, dơ bẩn, rách rưới, đang ngồi khóc vì đói rét ở một góc chợ hôi hám. Bất nhẫn sinh ác, chàng liền thuê bọn côn đồ thủ tiêu bé gái…những mong thoát khỏi thiên cơ…và có tiền việc đó xong ngay…
Mười lăm năm sau, Vi Cố mới đỗ Thám Hoa, được một người vợ trẻ đẹp như tiên nga, ái nữ của một vị quan to... Một hôm, tan chầu về nhà, vợ đang gội đầu, chàng đến giúp thì thấy trên đầu vợ, ẩn sau mớ tóc đen tuyền, bóng mượt, có một cái sẹo to…Lời thuật lại của vợ làm Vi Cố vỡ lẽ. Người vợ, cô bé xấu xí ngày xưa, do ông nguyệt lão xe tơ, chàng đã cho thủ tiêu hòng cải lại “duyên thiên”… và người vợ hiện thời, chỉ là một... Mới biết chuyện gì, trời đã định thì không bao giờ thoát khỏi.
Thời phong kiến, kẻ sĩ phải thi đỗ Tiến sĩ hoặc Cử nhân mới được ra làm quan.
liễu, cây liễu, với cái dáng thướt tha,yểu điệu, chỉ người phụ nữ .
Bài “Khuê oán” 閨 怨 của Vương Xương Linh ( ? – 756?) 王 昌 齡 có câu:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
忽 見 陌 頭 楊 柳 色
侮 教 夫 婿 覓 封 候
“Chợt thấy đầu đường màu dương liễu xanh tươi tốt,
Hối tiếc đã khuyên chồng đi lập công danh để được phong tước hầu”
Dịch thơ:
“Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.
(CPNK – Đoàn Thị Điểm: câu 297-298)
Nguyên văn: “Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái” ( 菶 弧 矢 男 兒 債)
Tang bồng hồ thỉ là cái nợ của kẻ làm trai.
Bậu: 倍, là cái bậu cửa, chỉ người con gái.
Qua:𦨜, nghĩa là vượt qua như qua sông, chỉ chàng trai.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét