3 thg 3, 2017

Chữ Nho... Dễ Học - Bài 30- (Đỗ Chiêu Đức) mà học... không dễ

                                   Các Bộ 10 nét
                                       

       Trước khi bắt đầu bài viết nầy, như thường lệ, mời tất cả cùng đoán chữ đố của bài viết trước:
               Loan phụng hòa minh,   鸞鳳和鳴,
               Bách niên giai lão.         百年偕老.
Có nghĩa :
       Chim Loan chim phượng cùng hòa chung tiếng gáy,
       Cùng chung sống với nhau đến già, đến trăm năm.
Giải Đáp :
       Hai câu trên là hai câu chúc cho đôi TRAI GÁI nên duyên cầm sắc, chung sống với nhau cho đến bạc đầu. Đó là sự Hoà Hợp giữa TRAI là TỬ 子 và GÁI là NỮ 女; Trai Gái hòa hợp nhau là việc Tốt, nên khi ghép chữ NỮ 女 và chữ TỬ 子 lại với nhau, ta có chữ HẢO 好 là Tốt, là Lành, là Đẹp, là Xinh, là Ngon, là Hay !
       Nhớ lại 3 năm trước, khi còn làm trong trường học, các thầy cô giáo người Mỹ có nhờ tôi nói về sự hình thành của chữ Hoa, lúc nói đến chữ Hội Ý (ideatives), tôi đã dùng chữ HẢO nầy để làm ví dụ. Khi tôi nói  ghép chữ "TỬ 子 là BOY" và chữ "NỮ 女 là GIRL" lại với nhau thì ta có chữ... Tôi chưa kịp nói hết câu, thì các thầy cô Mỹ đều buột miệng nói là "SEX." Tôi ngạc nhiên hết sức! Thì ra, họ rất thực tế và rất tự nhiên theo cuộc sống thực dụng của người Mỹ.  Sau khi nghe tôi nói đó là chữ "HẢO  là GOOD" thì họ mới cười xòa!  Hai nếp sống Đông Tây qủa khác nhau một trời một vực, trong khi tây phương rất tự nhiên và thoải mái về vấn đề nam nữ, thì Đông phương lại bị gò bó bởi nề nếp lễ giáo Nho phong, như thiên "Chu Nam. Quan Thư 周南. 關雎 " trong Kinh Thi: 
              
  參差荇菜,左右流之。Sâm si hạnh thái, Tả hữu lưu chi.
  窈窕淑女,寤寐求之。Yểu điệu thục nữ, Ngụ mị cầu chi.
  求之不得,寤寐思服。Cầu chi bất đắc, ngụ mị tư phục.
  悠哉悠哉,輾轉反側。Du tai du tai, Triển chuyển phản trắc.

          Image result for 參差荇菜,左右流之  Image result for 參差荇菜,左右流之   

                       Image result for 參差荇菜,左右流之
                   Yểu điệu thục nữ, ngụ mị cầu chi.
Có nghĩa :
      So le rau Hạnh, phải trái xuôi dòng.
      Yểu điệu thục nữ, đêm nhớ ngày mong.
      Cầu mà chẳng được, thức ngủ nhớ mong.
      Dài thay dài thay, trăn trở mấy vòng!      
Lục bát :
                    Kìa xem rau hạnh so le,
             Theo nước trong xè phải trái chảy đi.
                    Cô em yểu điệu nhu mì,
             Ngày mong đêm nhớ kể gì thời gian.
                    Cầu mà chưa được chẳng an,
             Thức ngủ mơ màng đêm nhớ ngày mong.
                    Dài ghê đêm tối mông lung,
             Nằm mãi trong mùng trăn trở trở trăn!
      HẢO 好 khi đọc là HIẾU hoặc HÁO thì có nghĩa là: Ưa, Thích, Ham, Tham. Như:
      HIẾU HỌC 好學 : là Ham học, thích học.
      HIẾU KHÁCH 好客 : là Thích Tiếp khách, Tốt với khách.
      HIẾU CHIẾN 好戰 : là Hăng máu thích đánh nhau.
      HIẾU SỰ 好事 : là Nhiều chuyện, thích gây sự rắc rối.
      HÁO TÀI 好財 : là Tham tiền, ham tiền.
      HÁO SẮC 好色 : Thích gái đẹp, chết mê chết mệt vì gái.
      HÁO THỰC 好食 : là Ham ăn hốt uống.
      HÁO DANH 好名 : là Thích nổi tiếng, là Ham mê danh vọng.
1. BỘ TIÊU  : Còn đọc là BƯU, SAM.
    TIÊU   : là Lông Tóc dài rủ xuống. TIÊU 髟 là bộ mượn Tượng Hình để Chỉ Sự theo diễn tiến của chữ viết như sau :
                          Kim Văn     Đại Triện    Tiểu Triện    Lệ Thư 
 Cách viết
金文金文大篆小篆繁体隶书
 Ta thấy :
     Chung Đĩnh Văn (Kim Văn) là hình tượng của một người đứng xoay mặt và tay đưa về bên trái, bên phải là ba sợi tóc dài bay về phía sau. Qua Đại Tiểu Triện diễn tiến thành bộ TIÊU 髟. Tiêu thuần túy là một BỘ, không phải là một CHỮ.
     Có tất cả 70 chữ được ghép bởi bộ TIÊU 髟 đều có liên quan đến râu tóc, tiêu biểu có chữ :
     PHÁT 髮 : là Lông mọc ở trên đầu, gọi là TÓC. HẮC PHÁT 黑髮 là Tóc Đen, ta gọi là Tóc Xanh, chỉ tuổi trẻ. BẠCH PHÁT 白髮 là Tóc Trắng chỉ tuổi già. Khuyến Học Thi của Nhan Chơn Khanh đời Đường có câu :
       Hắc phát bất tri cần học tảo,        黑髮不知勤學早,
       Bạch đầu phương hối độc thư trì.  白頭方悔讀書遲。
Có nghĩa :
     Tóc còn xanh còn trẻ mà không sớm siêng năng học tập, thì...
     Đến khi đầu bạc rồi mới hối tiếc, muốn học thì đã muộn màng rồi!
                  
                         Hắc phát bất tri cần học tảo         

    KẾT PHÁT PHU THÊ 結髮夫妻 : là Vợ Chồng Kết Tóc, chỉ Vợ Chồng lấy nhau từ thuở còn trẻ. Ngày xưa, trai 20 tuổi thì búi tóc để đội mão; Gái thì 15 tuổi búi tóc để cài trâm. Kết Tóc là Búi tóc để chỉ đã khôn lớn trưởng thành rồi, kết hôn được rồi. Cho nên, vợ chồng lấy nhau lúc còn trẻ thì gọi là KẾT PHÁT PHU THÊ 結髮夫妻, cũng có nghĩa là người hôn phối chính, có cưới hỏi đàng hoàng. Đêm động phòng hoa chúc, trước khi uống rượu hợp cẩn giao bôi, thì theo lệ Nam tả Nữ hữu cùng cắt một lọn tóc xuống để kết lại với nhau, với ý là vợ chồng sẽ đồng cam cộng khổ và sẽ gắn bó với nhau suốt  đời. Lúc Kim Kiều tái hợp, Kim Trọng đòi làm lễ cưới với Kiều, cô Kiều đã từ tạ rằng:
                      Chàng dù nghĩ đến tình xa,
                  Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ.
                       Nói chi KẾT TÓC xe tơ,
                  Đã buồn cả ruột mà nhơ cả đời !

  
     Ta còn có thành ngữ TÀO KHANG PHU THÊ 糟糠夫妻 : Ta nói là Vợ Chồng Tấm mẳn, chỉ vợ chồng cưới nhau từ lúc còn hàn vi nghèo khổ (chỉ có ăn cám ăn tấm với nhau mà thôi). Cho nên :
     KẾT PHÁT CHI THÊ 結髮之妻 : là Nguyên phối, vợ chánh, vợ lớn.
     TÀO KHANG CHI THÊ 糟糠之妻 : là Bà vợ lúc còn nghèo khổ, phải biết trân trọng không được bạc đãi. Có câu TÀO KHANG CHI THÊ BẤT KHẢ HẠ ĐƯỜNG 糟糠之妻不可下堂: là Người vợ lúc còn hàn vi (bây giờ đã vinh hiển) thì không được cho xuống nhà dưới; dù có cưới thêm bao nhiêu vợ nữa thì cũng là Thứ Thiếp mà thôi. Bà Vợ Lớn luôn luôn là Chánh Thê phải ở nhà trên hẵn hoi! Cô Kiều cũng đã biết thân mình lẻ mọn, cho nên khi về với Thúc Sinh nàng cũng thừa lúc "Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh, E tình nàng mới bày tình riêng chung" mà khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả là Hoạn Thư, trong khi:
                        Tin nhà ngày một vắng tin,
                 Mặn tình cát lũy, nhạt tình TÀO KHANG.

    Câu TÀO KHANG CHI THÊ có xuất xứ như sau:
    Vào thời Đông Hán, có quan Đại Tư Không Tống Hoằng, làm quan thanh liêm chính trực, rất được Quang Võ Đế là Lưu Tú xem trọng, ông làm quan đến chức Tuyên Bình Hầu.
    Chị của Quang Võ Đế là Hồ Dương Công Chúa vừa mới góa bụa. Võ Đế có ý gả chị mình cho Tống Hoằng, nhưng không biết ý của chị mình ra sao. Một hôm hai chị em đang bàn luận về các triều thần, khi nhắc đến Tống Hoằng, Hồ Dương Công Chúa khen ông ta là người chính trực lại có oai phong đức độ, quần thần không ai bằng được. Nhà vua nghe nói cả mừng, bảo công chúa đứng sau bình phong, rồi triệu kiến Tống Hoằng mà hỏi rằng: "Ta nghe ngạn ngữ có câu: "Quý dịch giao, Phú dịch thê 贵易交,富易妻 " (Giàu đổi vợ, sang đổi bạn) đó là tình đời hay sao?" Tống Hoằng nghe nói biết là chắc có ý gì đây, bèn thẳng thắng mà đáp rằng: "Thần nghe nói là BẦN TIỆN CHI GIAO MẠC KHẢ VONG, TÀO KHANG CHI THÊ BẤT HẠ ĐƯỜNG 貧賤之交莫可忘,糟糠之妻不下堂 (Bạn bè thân giao lúc nghèo khó thì không thể quên được; còn người vợ lúc cơ hàn thì không thể bỏ đi được!)
      Vua Quang Võ nghe thế thì quay vào phía bình phong mà nói rằng: "Chuyện nầy không xong rồi chị ơi!"  Từ đó về sau, càng xem trọng Tống Hoằng hơn trước nữa.
  
     HỒ, TU, NHIỄM, 鬍,鬚,髯 : HỒ là Râu dưới cằm, TU là Ria trên 2 mép môi, NHIỄM là Râu mọc từ 2 bên tóc mai trở xuống. Có tất cả 5 chòm râu mọc ở trên mặt. Ta có từ:
     HỒ TU 鬍鬚 : là từ kép chỉ Râu Ria. TU MI 鬚眉 : Râu và Chơn Mày của đàn ông, vì đàn bà ngày xưa khi làm đẹp thường cạo sạch cả chơn mày để vẽ lại cái mới cho đẹp và đúng theo ý mình muốn, cho nên MÀY RÂU hay RÂU MÀY là biểu tượng của người Đàn Ông. Nếu cạo sạch cả mày lẫn râu thì chỉ có những kẻ ăn chơi đàng điếm như Mã Giám Sinh trong Truyện Kiều:

                         Qúa niên trạc ngoại tứ tuần,
                    Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao!

     Khác với Từ Hải khí vũ hiên ngang với:

                         RÂU HÙM hàm én mày ngài,
                   Vai năm tấc rộng thân mười thước cao!

     RÂU HÙM là HỔ TU 虎鬚 từ dùng để chỉ hàm râu oai hùng của các Hổ Tướng!
     MỸ NHIỄM CÔNG 美髯公 : là Ông già có bộ râu đẹp. Đây cũng là ngoại hiệu của Quan Vân Trường Quan Công đời Tam Quốc, và cũng là ngoại hiệu của Thiên Mãn Tinh Chu Đồng, vị anh hùng thứ 12 trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc.
                
              鬍 Râu                     Ria                 Râu Năm Chòm
2. BỘ SƯỞNG  :
    SƯỞNG  : là Rượu Nếp Than dùng để cúng tế. SƯỞNG là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau:

  Nét chữ金文金文大篆小篆繁体隶书
Ta thấy :
     Kim Văn và Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của đồ đựng và ủ rượu, những chấm đen tượng trưng cho bã rượu do ướp bằng nếp than và cỏ uất kim hương. Đây là thứ rượu dùng để cúng tế thần thánh vào ban đêm của ngày xưa, theo sách Hán Thư 汉书·宣帝纪 Tuyên Đế kỷ thì "Tiến Sưởng chi tịch, thần quang giao thố, hoặc đăng vu thiên, hoặc giáng ư địa 薦鬯之夕。神光交錯。或登于天。或降於地."  Có nghĩa: Vào đêm cúng dâng rượu thánh có những vệt chớp sáng giao nhau, hoặc chiếu lên trời hoặc xẹt xuống đất.
      Tiêu biểu cho bộ SƯỞNG chỉ có một chữ:
   鬱 UẤT : là Buồn bã trong lòng, như UẤT ỨC 鬱抑 ; Buồn bã chất chứa bị đè nén ở trong lòng.
   憂鬱 ƯU UẤT : là Buồn rầu lo lắng day dứt mãi trong lòng.
   鬱鬱 UẤT UẤT : là Buồn rầu sầu khổ âm thầm chịu đựng. UẤT UẤT còn chỉ Cây cỏ xanh tươi rậm rạp. Ta có thành ngữ:
   鬱鬱蒼蒼 UẤT UẤT THƯƠNG THƯƠNG: là Rậm rạp xanh om một dãy, như trong bài Thủy Kinh Chú của Lệ Đạo Nguyên đời Bắc Ngụy: 仰視岩石松樹,鬱鬱蒼蒼,如在雲中 Ngưỡng thị nham thạch tùng thọ, uất uất thương thương, như tại vân trung. Có nghĩa : Ngẩng trông đá núi rừng thông, xanh om rậm rạp, như lẫn khuất tận trong mây xanh.
    UẤT 鬱 còn có nghĩa là mùi thơm nồng nặc. Như PHỨC UẤT 馥 鬱 là Mùi thơm đậm đà nồng nặc. Giới bình dân nói là Thơm Phức. Ta có tên của một loại thảo mộc rất nổi tiếng là:
    鬱金香 UẤT KIM HƯƠNG : Tên khoa học là Tulipa gesneriana, ta quen gọi là Hoa Tu-lip, là Quốc Hoa của nước Hà Lan, người Hà Lan gọi là Tulpenmanie; tiếng Anh là Flower of Common Tulip,Flower of Late Tulip. Trong Thái Bình Ngự Lãm và Bổn Thảo Thập Di có tên là Uất Kim Hương, nở rộ khoảng tháng Tư tháng Năm Dương lịch.
     Nguồn gốc của Uất Kim Hương phát xuất từ đâu, đến nay vẫn chưa xác định; chỉ biết khoảng 500 năm trước, những người sống ở các nước Trung Á có khăn đội đầu quấn tròn giống như là hình tượng của một đóa Uất Kim Hương. Chữ "Tulipa" có nghĩa là "Khăn quấn đầu" trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, cho nên có chuyên gia nghiên cứu cho rằng hoa Tulip vốn có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ và các nước vùng Địa Trung Hải, đến năm 1863 mới truyền vào Hà Lan rồi dần dà trở thành Quốc Hoa và là biểu tượng của nước nầy cho mãi đến hiện nay.

      Image result for 鬱金香 Image result for 鬱金香 
   
                           Image result for 鬱金香
                             鬱金香  Uất Kim Hương

     芬芳馥鬱 PHÂN PHƯƠNG PHỨC UẤT: Mùi hương thơm ngát nồng nặc lan tỏa khắp nơi.

3. BỘ ĐẤU  :
    ĐẤU  : là Đánh Nhau. ĐẤU 鬥 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau:

 Nét viết
甲骨文
金文大篆小篆繁体隶书
Ta thấy :
     Giáp Cốt Văn là hình tượng của 2 người đang sửng tóc lên, hai tay đang câu vào nhau như sắp sửa đánh nhau, nên ĐẤU 鬥 là Đánh nhau xem ai hơn ai thua, là So tài cao thấp, như ĐẤU VĂN 鬥文, ĐẤU VÕ 鬥武, ĐẤU TRÍ 鬥智 ...
     ĐẤU 鬥 là cho các con vật hơn thua với nhau. Như : ĐẤU KÊ 鬥雞 là Đá Gà, ĐẤU TẤT SUẤT 鬥蟋蟀 là Đá Dế, ĐẤU NGƯU 鬥牛 là Chọi Trâu, Tây phương gọi là Đấu Bò ...
     ĐẤU CHIẾN THẮNG PHẬT 鬥戰勝佛 : là Phật Hiệu của con khỉ đá xưng là Tề Thiên Đại Thánh Tôn Ngộ Không sau khi phò Đường Tam Tạng thỉnh kinh xong được Phật Tổ Như Lai phong cho Phật hiệu nầy. Thật ra, trong 《决定毗尼经》Quyết Định Tì Ni Kinh có nhắc đến Tam thập ngũ (35) Phật trong Thập Phương nhất thiết thế giới,  đứng hàng thứ 31 đã có Đấu Chiến Thắng Phật rồi, Ngô Thừa Ân chỉ dựa vào Phật hiệu có sẵn để gán cho Tôn Ngộ Không mà thôi, chứ đã là PHẬT thì đều là NGƯỜI TU HÀNH CÓ ĐƯỢC SỰ GIÁC NGỘ CAO NHẤT, nên không có Chức Vị, Cao Thấp Thắng Thua gì cả! Cao Thấp là do người đời gán cho mà thôi, như người đời vẫn thường quan niệm là :
                     Phật thì cao hơn Bồ Tát,
                     Bồ Tát thì cao hơn La Hán,
                     La Hán thì cao hơn Tăng Lữ ....

               
                                          
     Đấu Chiến Thắng Phật.  Tôn Ngộ Không khi thành Phật
 
   ĐẤU 鬥 còn có nghĩa là Tranh Thủ cố gắng để có được, để giành lấy, như  ĐẤU TRANH 鬥爭, TRANH ĐẤU 爭鬥, PHẤN ĐẤU 奮鬥 ...
   ĐẤU 鬥 là Đánh nhau, nhưng ĐẤU KHẨU 鬥口 là Cải lộn nhau, chưởi lộn nhau như Cao Bá Quát đã diễn tả lại cho vua nghe cuộc cải cọ rồi ẩu đả nhau giữa hai vị quan trong triều là Phan Văn Nhã và Võ Văn Khải đánh nhau vì chuyện văn chương.  Ông Khải xem bài ông Nhã, chê kém, và nói Văn như thế, chó nó cũng làm được. Thế là sinh sự đánh nhau đến sức đầu mẻ trán. Khi vua hỏi, Cao Bá Quát đã tường thuật lại như thế nầy:
           Bất tri hà sự,                            不知何事,
           Lưỡng tương đấu khẩu.           兩相鬥口。 
           Bỉ viết cẩu,                                 彼曰狗,
           Thử diệc viết cẩu.                      此亦曰狗。
           Bỉ thử giai cẩu.                           彼此皆狗。
           Dĩ trí đấu ẩu,                              以致鬥毆,
           Thần kiến thế nguy thần tẩu!   臣見勢危臣走! 
Có nghĩa :
                Chẳng biết việc chi,
                Hai người cùng ĐẤU KHẨU với nhau.
                Người nầy nói chó,
                Người kia cũng nói chó.
                Cả hai đều chó.
                Đến nỗi ẩu đả nhau,
                Thần thấy thế nguy nên thần chạy!

     ĐẤU DIỄM 鬥艷 : là So sánh xem ai đẹp hơn ai. Ta có thành ngữ ĐẤU DIỄM TRANH PHƯƠNG 鬥艷爭芳 dùng cho cả Hoa lẫn Người đẹp : là tranh nhau xem ai đẹp hơn ai, ai thơm hơn ai?!
    ĐẤU DŨNG 鬥勇 : là Tranh nhau xem ai dũng cảm gan dạ hơn ai.
    ĐẤU TRÍ 鬥智 : là Xem coi ai cơ trí khôn ngoan hơn ai.
    ĐẤU LỰC 鬥力 : là xem coi ai mạnh mẽ hơn ai.
    ĐẤU KHÍ 鬥氣 : là Tranh hơi, là Làm Nư với ai đó.
    ĐẤU PHÁP 鬥法 : là Đấu xem pháp thuật của ai cao cường. Dân Lục tỉnh gọi là Đấu Phép.
    ĐẤU gì thì ĐẤU, không có ĐẤU nào bằng... ĐẤU TỐ 鬥訴 của Cộng Sản cả! Như :
    ĐẤU TỐ ĐỊA CHỦ 鬥訴地主
    ĐẤU TỐ TƯ SẢN 鬥訴資產
    ĐẤU TỐ TRÍ THỨC TIỂU TƯ SẢN 鬥訴智識小資產...

    Image result for Đấu tố trí thức tiểu tư sản 

                                 Có tất cả 10 chữ được ghép bởi bộ ĐẤU nầy, tiêu biểu có chữ:
   NÁO 鬧 : là chữ Hội Ý, gồm có chữ ĐẤU 鬥 là đánh nhau và chữ THỊ 市 là Chợ.  Đánh nhau ở giữa chợ sẽ làm cho Náo Động ồn ào. NÁO là ồn ào náo nhiệt. Chữ NÁO nầy cũng đồng nghĩa với chữ "Thị tại môn tiền NÁO 閙" của 2 câu thơ mở đầu bài Hát nói Chữ Nhàn của cụ Nguyễn Công Trứ.
    NÁO là không yên tịnh, như :
    NÁO THỊ 鬧市: là Chợ búa ồn ào. Tăng Quảng Hiền Văn có câu :
         Bần cư NÁO THỊ vô nhân vấn,       貧居鬧市無人問,
         Phú tại thâm sơn hữu viễn thân.    富在深山有遠親。
Có nghĩa :
     Nghèo mà ở nơi chợ búa ồn ào cũng không có ai thèm hỏi tới,
     Còn giàu mà ở nơi núi thẳm rừng sâu thì cũng có bà con ở xa tìm đến thăm hỏi. 
     Câu nầy còn có một dị bản là :
         Bần cư tại thị vô nhân thức,          貧居在市無人識,
         Phú tại thâm sơn hữu khách tầm.  富在深山有客尋。
Có nghĩa :
     Nghèo mà ở tại chợ cũng không có người biết đến, còn...
     Giàu mà ở trong núi sâu cũng có khách tìm đến thăm!
     Nhưng, lại có câu ...
                NÁO lý hữu tiền,    鬧裡有錢,
                Tịnh xứ an thân.    靜處安身。
Có nghĩa :
     Ở nơi ồn áo náo nhiệt thì dễ kiếm tiền, còn...
     Ở nơi yên tịnh thì sẽ được yên thân. Được cái nầy thì mất cái kia, chuyện đời vốn dĩ là thế!

     NÁO 鬧 còn có nghĩa là Làm cái gì đó để vui chơi, như ...
           NÁO HÍ 鬧戲 là Chọc phá chơi cho vui.
           NÁO ĐỘNG PHÒNG 鬧洞房 : là bạn bè choc phá cô dâu chú rễ trước giờ động phòng hoa chúc cho vui. Nhưng...
           NÁO TIẾU THOẠI 鬧笑話 không phải là Nói chuyện cho vui cười chơi, mà là: Làm trò cười cho người khác !  
     NÁO 鬧 còn có nghĩa là Xảy ra, là Vướng phải, như: 
          NÁO BỆNH 鬧病: là Bị bịnh, nhuốm bịnh.
          NÁO THỦY TAI 鬧水災 : là Xảy ra nạn nước lụt.
     NÁO 鬧 còn chỉ sức sống đang vươn lên một cách mạnh mẽ, như trong bài từ Ngọc Lâu Xuân của Tống Kỳ đời Bắc Tống nổi tiếng với  hai câu:
             綠楊煙外曉寒輕, Lục dương yên ngoại hiểu hàn khinh,
             紅杏枝頭春意鬧。 Hồng hạnh chi đầu xuân ý NÁO.
Có nghĩa :
     Sương sớm phủ mờ hàng dương liễu trong hơi lạnh nhè nhẹ của buổi ban mai, một cành hồng hạnh đỏ rực trên đầu cành như vươn tỏa sức sống bồng bột của mùa xuân đang độ.
Tạm dịch :
                     Xanh om liễu rũ mờ sương sớm,
                     Đỏ rực đầu cành hạnh đón xuân ! 

           Image result for 紅杏枝頭春意鬧  

           
           Hồng hạnh chi đầu xuân ý náo
 
      Như thường lệ, trước khi kết thúc bài viết nầy, mời tất cả cùng nhau đoán một chữ cho vui:
                      左边不出头,  Tả biên bất xuất đầu,
                      右边不出头,  Hữu biên bất xuất đầu,
                      不是不出头,  Bất thị bất xuất đầu,
                      就是不出头!    Tựu thị bất xuất đầu !
Có nghĩa :
                     Bên trái không lú đầu,
                     Bên phải không lú đầu,
                     Không phải không lú đầu,
                     Chính là không lú đầu !

                 Đoán một chữ với 4 câu trên !

     Hẹn gặp lại bài viết sau: Các bộ 10 nét ( tt và hết )

                             Đỗ Chiêu Đức

Xem Thêm : Chữ Nho... Dễ Học - Bài 29

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét