18 thg 3, 2020

Sơ lược về lịch sử trang phục Tây Phương (P.1): trang phục Tây Phương thời cổ đại

Trong lịch sử, nhân loại đã từng trải qua các thời kỳ, tại các địa phương khác nhau hay những nhóm dân tộc khác nhau sẽ có những phong cách khác nhau về trang phục. Quần áo và trang sức phản ánh được người ở nơi ấy đối với cái đẹp có sự cảm thụ như thế nào. Bài viết này đưa độc giả vào những diễn biến lịch sử về trang phục người Tây Phương thời cổ đại(*)
Lịch sử phục trang phục của nền văn minh cổ đại Tây Á
Ai Cập là một nước có nền văn minh cổ đại, tuy nhiên những trang phục được lưu lại là không nhiều; chúng ta chỉ có thể thông qua những bức bích họa cổ để hiểu được hình thức trang phục cổ đại của họ. Do thời tiết vô cùng nóng nực mà người dân ở Ai Cập hầu như mặc rất ít quần áo, vật liệu may mặc cũng chỉ là những chất liệu lanh mỏng.
Những người đàn ông của tầng lớp quý tộc chủ yếu mặc một chiếc váy gọi là “thắt lưng vải”, phần trên thân để trần hoặc mặc một chiếc áo ngắn cổ tròn. Người phụ nữ nơi đây có trang phục là chiếc áo dài Trường Sam bó sát người, cổ tròn hoặc một chiếc váy đầm kéo dài từ phần ngực đến mắt cá chân, kết hợp mang một chiếc đai vắt trên vai. Những người dân bình thường và nô lệ sẽ mặc những loại vải có chất liệu dày hơn, thậm chí họ để thân thể trần, chỉ lấy một miếng vải nhỏ để che phần thân dưới.



Phu nhân Ai Cập cùng nô lệ trong trang phục cổ đại. (Ảnh: epochtimes.com)

Đối với những người Sumer đầu tiên sinh sống tại lưu vực sông Lưỡng Hà, các nhà khảo cổ học hiện đại cũng không biết nhiều về quần áo trang sức của họ. Nhưng từ những pho tượng được khai quật, ít nhất cũng thấy được nửa phần dưới của họ mặc váy hoặc một loại vải choàng qua vai quấn quanh người dài đến mắt cá, được suy đoán là của những người dân du mục từ phía bắc của vùng Trung Á tới. Kiểu áo choàng qua vai có thể dành cho cả đàn ông và phụ nữ, sau đó cách ăn mặc này tiếp tục ảnh hưởng đến những người Babylon và Assyria.



Trang phục của người Sumer. (Ảnh: epochtimes.com)

Người Assyria và người Babylon thuộc về tộc người Do Thái đến từ sa mạc Ả Rập, trang phục của họ ngoài áo choàng giống người Sumer, cũng có một loại áo tay ngắn, dài đến đầu gối và một chiếc đai trên phần bả vai. Vật liệu sử dụng chủ yếu là len.



Trang phục người của người Babylon. (Ảnh: epochtimes.com)

Cuối cùng là một đế quốc hùng mạnh với quyền lực vượt xa Ai Cập, đó là Ba Tư. Ba Tư thậm chí đã có một số cuộc tấn công vào Hy Lạp cổ đại. Nổi tiếng trong đó là chiến dịch chạy marathon nhằm tấn công thành bang Hy Lạp cổ. Phong cách trang phục nơi đây về cơ bản kế thừa áo choàng từ người Sumer nhưng nó được may rộng hơn, vật liệu không chỉ là len mà còn là lụa, vải lanh đến từ Trung Quốc, ngoài ra trên trang phục còn thêu nhiều hoa văn đẹp mắt. Trong thời điểm đó, kỹ thuật nhuộm vải rất phát triển, quần áo của người dân đa số là màu đỏ, xanh dương, trắng. Quan chức và quý tộc thường mặc quần áo có màu xanh tím than.



Trang phục của người Ba Tư. (Ảnh: epochtimes.com)

Thời kỳ cổ đại cũng xuất hiện một loại dạng thức giống như “quần”, trang phục này đối với các dân tộc coi váy làm đồ mặc chủ yếu tại Tây Á về hình thái có chút bất đồng. Trong lịch sử, đại đế Alexander đã chinh phục đế quốc Ba Tư; vì Alexander áp dụng chính sách Hy Lạp hóa trong những khu vực mà ông chinh phục, nên trang phục trên hai bờ sông Lưỡng Hà dần dần trở thành phong cách ăn mặc Hy Lạp.
Diễn biến của trang phục Tây phương
1. Hy Lạp cổ đại – Trang phục váy hình vuông
Hy Lạp cổ đại là gốc rễ của nền văn minh phương Tây, chứ không phải là một vương quốc thống nhất. Hy Lạp do đông đảo các quốc gia (gọi là thành bang) cùng tạo thành một vòng tròn văn hóa, có phạm vi ước chừng từ Macedonia ở Balkan đến Kerry ở biển Địa Trung Hải. Các đảo bao gồm Biển Aegean và nhiều quốc đảo trên Biển Ionian, cũng như các khu vực duyên hải nhỏ của Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay).
Theo các nghiên cứu khảo cổ học hiện nay, văn hóa Minos trên đảo Crete (đảo lớn nhất và đông dân nhất của Hy Lạp, và là đảo lớn thứ năm tại Địa Trung Hải) nảy nở sớm nhất trong khu vực Địa Trung Hải; theo các hiện vật khai quật được, niên đại thời kỳ hưng thịnh của nó ước chừng từ năm 3.000 đến năm 1.100 trước Công Nguyên.
Từ những bức bích họa có tại cung điện, thấy rằng đàn ông chủ yếu là mặc váy “thắt lưng vải”, áo của phụ nữ là áo ngăn tay bó sát thân kết hợp với một chiếc váy hình chuông nhiều tầng. Đàn ông và phụ nữ đều đeo thắt lưng da để thắt chặt eo. Những trang phục và lời nói người Minos khác với những trang phục của những thành bang khác, vì vậy mà có học giả đem văn minh cổ đại của Minos và văn minh Hy Lạp tách biệt ra độc lập với nhau.



Bích họa văn minh Minos trên đảo Crete. (Ảnh: epochtimes.com)

Năm 776 trước công nguyên, người Hy Lạp đã tổ chức Thế vận hội Olympic đầu tiên, đánh dấu sự khởi đầu thời kỳ thịnh vượng của nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Trong 250 năm sau, các thuộc địa của các thành phố Hy Lạp cổ đại trải dài trên khắp bờ biển Địa Trung Hải, bao gồm những nơi như Tiểu Á và Bắc Phi. Tại thời điểm này, trọng tâm nền văn minh Hy Lạp cổ đại dần dần tập trung tại Athens và Sparta.
Các thành bang Hy Lạp cổ đại được phân bố rộng rãi, mặc dù trang phục đa phần giống nhau về ngoại hình, nhưng vì sự bất đồng địa phương mà vật liệu may mặc cũng có sự khác biệt nhất định. Trang phục Hy Lạp cổ đại được gọi là bào y (Chitonic), về cơ bản là một tấm vải trắng lớn cuốn quanh người, sự khác biệt giữa đàn ông và phụ nữ không lớn, chỉ ở việc cách cuốn tấm vải trên thân là khác nhau.
Trang phục của nam giới không thay đổi nhiều, quần áo ở phần thân dưới giống như ở Ai Cập và khu vực sông Lưỡng Hà, tất cả đều được sử dụng một chiếc váy. Chlamys là tên một trang phục mặc từ phía trên dành cho nam giới, tương tự như một chiếc áo khoác ngoài, dài 5 thước Anh (1 thước Anh = 0,3048m) , rộng 3 thước Anh, phủ qua vai trái, che cánh tay trái.



Trong bức tranh là vua David mặc y phục Chlamys. (Ảnh: epochtimes.com)

Phong cách của quần áo nữ giới được chia thành ba loại: Doric, Loric và Peplos. Hai cái tên đầu tiên được lấy từ tên của hai cây cột trụ trong ngôi đền Hy Lạp cổ đại, phong cách Doric là phong cách trang phục đơn giản, giản dị còn phong cách Loric nhấn mạnh sự phức tạp cầu kỳ hoa lệ. Sự khác biệt giữ Peplos và Doric là ở phần đai, Doric có phần đai giấu trong áo trong khi Peplos thì lộ ra ngoài.



Năm 530 trước Công Nguyên, trang phục Peplos của phụ nữ Hy Lạp. (Ảnh: epochtimes.com)
Mô tả về trang phục Hy Lạp cổ đại. (Ảnh: epochtimes.com)

2. Thời kỳ La Mã cổ đại – Vải dạng hình cung cuốn quanh thân thể
Nền văn minh Hy Lạp cổ đại không chỉ phát triển mạnh trong khu vực Hy Lạp, mà còn lan truyền đến Trung Á và Bắc Phi bởi đại đế Alexander. Sau hàng trăm năm thịnh vượng, cuối cùng cũng không tránh khỏi sự suy sụp. Người La Mã cổ đại chinh phục ngày càng nhiều khu vực Hy Lạp vào năm 146 trước Công nguyên, cùng với đó là sự thừa kế nền văn hóa Hy Lạp cổ đại. Trong khía cạnh quần áo, họ cũng mặc áo choàng giống như người Hy Lạp cổ đại.
Ngoài ra, người La Mã cổ đại cũng đã có phát minh riêng của họ: áo choàng này được gọi là Toga chỉ được mặc bởi công dân La Mã, đó là khoác trực tiếp một miếng vải hình vòng cung dài, tùy thuộc vào các dịp lễ mà nó sẽ được khoác kiểu khác nhau. Các công dân bình thường mặc áo trắng, áo của các quan chức và giáo sĩ có viền màu tím, các quan chức cao cấp có màu đỏ thẫm, các tướng lĩnh và hoàng đế thì được thêu bằng sợi chỉ vàng trên áo choàng màu tím. Ở La Mã cổ đại, màu trắng đại diện cho sự tinh khiết và toàn vẹn, và màu tím được coi là một màu sắc cao quý.



Antoninus Pius trong “Ngũ hiền đế” của đế quốc La Mã mặc áo choàng Toga. (Ảnh: epochtimes.com)

(Còn tiếp)
Theo epochtimes.com
Uyển Vân biên dịch
(*) Khái niệm “Tây Phương” trong thời cổ đại được hiểu là các quốc gia khu vực Tây Á và quanh biển Địa Trung Hải

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét