Thấy bài nầy trên mạng ,đem về đây cho anh chị em xem chơi...
Mình nghĩ nó không phải là chuyện con đò.Đó là những phận người khốn khổ, cơ cực từ đầu đến cuối cuộc đời mà nguồn hy vọng được khấm khá hơn 1 chút còn ở tận đâu đâu
Đọc xong nghe cay đắng trong lòng.
Rất cám ơn tác giã
Có điều, con đò ở quê tôi nó không hề lãng mạn như con đò
trong ca dao hay trong thơ Nguyễn Bính. Trong ca dao con đò nằm
dưới cây đa để trai gái lấp lửng chuyện đợi chờ hò
hẹn. Trong thơ Nguyễn Bính có anh lái đò mơ mộng lang thang tôi
dạm bán thuyền—có người trả chín quan tiền lại thôi. Con
đò quê tôi, nó chỉ là một cái thuyền vá víu hay nằm ghếch
mũi trên bờ sông cát trắng nắng như đổ lửa. Còn anh lái
đò, thì không có anh lái đò nào cả, chỉ có mỗi ông Hai
Nồi.
Ông Hai Nồi không biết thơ Nguyễn Bính, cũng không đọc ca dao.
Ổng mặc cái áo ka-ki bạc lưng, đội cái nón cời rách teng
beng, da ổng đen thui như lọ nghẹ. Nhưng ông Bốn Kiệt nói
"Họ kêu thằng Hai Nồi là thằng Hai Nồi không phải tại da
hắn đen, mà là tại hồi trẻ hắn ăn tham lắm, mỗi bữa hắn
ăn cơm tới hai nồi."
Bàn tay phải của ông Hai Nồi bị cụt đến bốn ngón, chỉ
còn ngón cái. Khi chèo, ổng phải kẹp cây dầm vào khuỷu tay.
Theo lời ổng kể thì ổng bị vậy là vì hồi chiến tranh ổng
đi lính bị dính mảnh đạn, phải đưa về bệnh viện thương
phế binh ở An Hải. Ổng nói bàn chân ổng bị tật cũng vào
lần ấy. Nhưng ông Bốn Kiệt nói "Thằng Hai Nồi hồi trẻ
hắn đói quá, nửa đêm chui vô vườn ăn cắp khoai lang, bị
dân họ bắt đánh cho dập tay chớ bom đạn cái chi chi." Khi
người ta quay qua hỏi ông Hai Nồi thì ổng trợn mắt lên, dí
tay vào mặt người ta mà quát "Ngó cho kĩ đi, cái sẹo trơn
lĩn như ri mà là bị đánh dập tay à?"
Làng ai cũng biết ông Hai Nồi, vì làng ai cũng đi đò qua sông
không nhiều thì ít. Ngày thường cũng như ngày Tết, ổng ở
ngoài sông từ sáng đến chiều. Buổi trưa vắng khách, ổng
ngồi đằng mũi đò, chân phải bắt qua chân trái, cắm mặt
xuống ăn cơm. Những khi có khách thì ổng đứng đằng lái,
người ổng khòm khòm, bàn chân trái ổng lệch hẳn sang một
bên, tạo với bàn chân phải một góc vuông. Trong sách viết
"Tiểu thuyền bất kham trọng tải," ổng nghe lỏm chữ
được chữ mất thành "Thuyền chở bất khả kham chở khối
lượng." Khách của ổng thường là mấy bà đi chợ, trong khi
các bà bàn bô bô chuyện con gà mớ rau thì ổng hóng hớt mỗi
nơi một chút, lâu lâu lại chêm vào câu "Thuyền chở bất
khả kham chở khối lượng," rồi ổng giơ ngón cái bàn tay
phải lên, và ổng cười có vẻ rất đắc ý.
Nhà ông Hai Nồi chỉ có một mẩu ở cuối xóm. Vợ ổng ở
với ổng được chừng hai năm thì đi mất, để lại cho ổng
một đứa con trai là thằng Quốc. Thằng Quốc đầu óc tối
tăm, học hành thuộc hạng ngu đần vô phương cứu vãn. Năm
đầu nó học sau tôi một lớp, hai năm sau nó học sau tôi ba
lớp. Sáng sớm người ta hay thấy ông Hai Nồi dắt thằng con
tới trường, tay trái ổng cầm nắm cơm, khuỷu tay phải ổng
kẹp cái cặp, ổng cứ đi cà nhắc được khoảng chục bước
lại quay lại nói "Nhanh lên không trễ học con Quốc." Ổng
đưa thằng con vào đến tận chỗ ngồi, xong nói "Ráng học
cho giỏi nghe con Quốc." Chiều tối người ta hay thấy ổng
rượt thằng Quốc chạy lên chạy xuống trong xóm, tay ổng cầm
cái roi dâu vụt vun vút vào không khí, miệng ổng kêu "Chớ mi
ăn cái chi mà mi ngu rứa Quốc?" "Chớ mi giống ai trong nhà
mà mi học dốt rứa Quốc?" Năm đầu thằng Quốc vừa chạy
vừa khóc, hai năm sau thì nó vừa chạy vừa ngoái đầu lại
kêu "Cơm ông ba cho tui ăn chớ cơm chi" "Tui giống ông ba
chớ giống ai." Cảnh ấy gần như thành lệ, đến mức hôm
nào không thấy hai cha con chạy lên chạy xuống ông Bốn Kiệt
lại ngạc nhiên hỏi "Ủa chớ răng bữa ni không thấy thằng
Hai Nồi hè?" rồi tự trả lời "À quên mất bữa ni chủ
nhựt hè."
Năm tôi học lớp bốn, thằng Quốc đi tắm sông hụt chân
chết đuối. Xác nó trôi xuống mắc kẹt dưới chân bãi đá
Xuân Nam, khi vớt được lên thì đã trương phình. Ông Hai Nồi
chôn con bên bờ sông rồi bỏ chèo đò, làng phải cắt người
khác chèo thay. Được mấy tháng ổng chèo đò trở lại, nhưng
ổng không nói cái câu "Thuyền chở bất khả kham chở khối
lượng" mà cũng không cười hềnh hệch nữa. Ổng cứ lẳng
lặng chống cây sào đẩy đò qua, rồi lại lẳng lặng chống
cây sào đẩy đò về, mặt ổng có vẻ ngẩn ngơ. Lúc trước
trời chưa chạng vạng ổng đã gác chèo về nhà cầm cây roi
dâu rượt thằng con chạy lên chạy xuống, bây giờ ổng ở
ngoài sông cho đến tận tối mịt. Ông Bốn Kiệt nói "Thằng
Hai Nồi hắn bị điên, nửa đêm tui ra sông hóng mát còn thấy
hắn ngồi thu lu trên đò."
Năm tôi học lớp năm, làng Phú Đa có người làm ăn thành
đạt từ thành phố về, bỏ tiền ra đúc một cây cầu bằng
xi măng bắc ngang sông. Cây cầu rộng phải đến sáu mét, nghe
nói là đủ cho ô tô tránh nhau, mặc dù cả hai bên làng chỉ
có tổng cộng đâu chừng ba chiếc xe đạp. Hôm khánh thành
cầu, dân làng đổ ra bờ sông đông nghẹt, pháo đốt đì
đùng, lại có cả một ông đứng giữa cầu đọc một bài thơ
trong có mấy câu đến giờ tôi vẫn còn nhớ:
<em>Cây cầu đúc nối hai bờ sông lại
Chiếc đò ngang giải thể nghiệp đón đưa.
Ông lái đò bước lên bờ gặt hái
Ruộng thấp gò cao định phận đuợc chưa?</em>
Ai nấy vỗ tay rào rào, rất hoan hỉ. Nhưng ông Hai Nồi không
có ruộng, ổng chỉ có một mẩu nhà ở cuối xóm. Cầu đúc
xong, không ai đi đò nữa, ổng chuyển sang nghề đánh cá, vẫn
ở ngoài sông từ sáng sớm đến tận khuya. Người trong làng ra
sông gánh nước vẫn thấy con đò ổng neo dưới chân cây cầu
đúc, gần chỗ nấm mồ thằng Quốc giờ cỏ đã mọc um tùm.
Nửa đêm trời nóng, ông Bốn Kiệt ra đứng trên cầu hóng mát
thấy ổng ngồi một mình trên đò, về nói "Thằng Hai Nồi
hắn bị điên."
Năm tôi học lớp sáu, làng bắt đầu đào đáy sông lấy cát
bán. Trước tiên thì chỉ có vài nhà, sau thì làng đi đào.
Người ta thuê cả xuồng máy để chở cho nhiều, lại thuê
thêm nhân công để đào cho nhanh. Từ sáng đến đêm, tiếng
xúc cát soàn soạt vọng từ ngoài sông vào đến tận cuối
làng. Nước sông thành ra đục ngầu, không uống được nữa,
làng chuyển sang uống nước giếng. Ông Hai Nồi nấn ná ít
lâu, rồi một bữa chống sào đẩy con thuyền vá víu bỏ làng
đi.
Chuyện chỉ có thế. Từ đó đến nay đã gần hai mươi năm,
vẫn không ai biết ổng đi đâu. Các bà đi chợ đã quên từ
lâu. Bọn con nít sinh ra sau này còn không biết ông Hai Nồi là
ai, mặc dù chúng nó chiều chiều vẫn ra bờ sông đá banh ở
bãi cát dưới chân cây cầu đúc. Chỉ có ông Bốn Kiệt bây
giờ đã già, tóc nửa bạc nửa rụng, tai điếc đặc, đầu
óc nghễnh ngãng, nửa đêm ra đứng trên cầu hóng mát thỉnh
thoảng vẫn ngạc nhiên hỏi "Ủa chớ răng bữa ni không thấy
thằng Hai Nồi hè?" rồi tự trả lời "À quên mất bữa ni
chủ nhựt hè."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét