17 thg 8, 2025

CHỬ NGHĨA LÀNG VĂN kỳ 15/8/2025 - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 Chữ nghĩa làng văn


***


Phố Cổ Hà Nội

Dưới thời nhà Lý, phố cổ Hà Nội gồm 61 phường thời đó. Thời Lê, đầu thế kỷ XVI, Hà Nội trở thành Đông Kinh, khắp nơi đổ về buôn bán làm ăn trong 36 phường lúc bấy giờ, và dần dần, nơi đây chính là khu Phố Cổ thời nay.


(phố Bát Sứ)


Xưa kia phố cổ Hà Nội là khu vực tập trung nhiều nghề thủ công. Đó là các loại thợ thêu (làng Quất Động-Thường Tín), thợ làm trống (gốc làng Đọi Tam - Hà Nam), thợ tiện, thợ làm mành (làng Giới Tế - Bắc Ninh), thợ làm quạt (làng Đào Xá - Hưng Yên), đúc đồng (làng Đại Bái – Bắc Ninh)...


Xe kéo, xe tay


Năm 1889 xe kéo làm tại Bắc Kỳ được mang sang trưng bày tại Đấu xảo Paris 


(Le vieux Tonkin, 1890-1894)


Cuối thế kỉ 19, chiều chiều được ngồi xe kéo đi hóng mát phía Hồ Tây, miệng phì phèo thuốc lá tây. Dựa vào tranh Oger (khắc in năm 1908-1909) Cu li xe đổi quần vẽ hai người phu kéo xe đang thay đổi quần áo có dấu hiệu của một công ty, thì có thể khẳng định rằng Hà Nội có công ty xe kéo trễ nhất là từ năm 1908


(Nguyễn Dư)


Khóc 


Khóc có: khóc lóc, khóc than, khóc nức nở, khóc tức tưởi, khóc thút thít, khóc xụt xùi, khóc sướt mướt, khóc thầm, khóc ấm ức, khóc nghẹn ngào, khóc không ra tiếng, khóc chảy máu mắt,


Khóc như “thiếu nữ vu quy nhật”. Tiếng khóc ở đây mang một ý nghĩa tinh tế phức tạp. Về nhà chồng, nếu chồng là người mình yêu thì phải vui, vậy khóc đây là khóc sung sứớng. 


(Minh Võ)


Góp nhặt cát đá


Mộng


Đi trong cõi mộng ta đừng mộng
Đứng giữa đất trời chẳng hướng trông
Ngồi đây soi bóng mình qua lại
Nằm ngủ mơ màng nhớ tánh không


Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt 


Từ trước tới giờ, chúng tôi chỉ nói đến những tiếng Việt gốc, do hay không do tiếng Tàu mà ra. Hay do ngôn ngữ nào khác? Về điểm đó, chúng tôi chưa kịp học cho tới nơi, những công trình ngôn ngữ học của người Pháp cho rằng tiếng Việt có họ hàng với tiếng Thái cũng chưa chứng minh được gì. Nhưng tiết lộ sau đây có thể làm quí vị ngẩn ngơ suy nghĩ. Là danh tù làng của ta là tiếng Mã Lai đấy. Người Mã Lai đọc là T'Làng. Làng là một tổ chức độc đáo và tối cổ của dân tộc ta thì danh từ chỉ tố chức ấy, nguồn gốc nó ở đâu, nguồn gốc dân tộc ta có thể ở đó.

 

(Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt – Bình Nguyên Lộc)


Bốn ngàn năm văn hiến


Vấn đề dân tộc ta có “bốn ngàn năm văn hiến” như các nhà văn hóa tuyên bố khiến giới học giả thắc mắc và nghi ngờ, không biết hai chữ “văn hiến” có ý nghĩa gì, và căn cứ vào đâu.

Nguyễn Trãi, khi giúp Lê Thái Tổ đánh đuổi quân Minh, dựng nền độc lập, tự trị của nước nhà cũng chỉ tuyên cáo với quốc dân:

“Dụng ngã Việt chí quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam Bắc chi phong tục diệc dị.
Việt Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.”


Nghĩa là:

“Thử xét nước nhà Đại Việt.
Vốn thật một nước văn hiến.
Núi sông khu vực đã khác biệt,
Phong tục phương Bắc, phương Nam không giống. 

Từ Triệu, Đinh, Lý Trần dựng nên nước ta, Với Hán, Đường, Tống, Nguyên ai nấy làm chúa một phương.” (Bình Ngô Đại Cáo)


Đấy là Nguyễn Trãi, muốn cổ võ cho tinh thần quốc gia dân tộc mà cũng chỉ dám kể từ nhà Triệu, tự xưng là Nam Việt vương đóng đô ở Phiên ngung ngày nay là Quảng châu tỉnh Quảng đông vào năm 237 trước T.C. 

Tính đến ngày nay 1973 thì mới được…1980 năm. 


Như vậy thì lấy đâu ra 4.000 năm văn hiến? Nói đến văn hiến là ngụ ý có văn chương bút ký và ngưới hiền tài, có công trình xây dựng cho nước. Nói “Bốn ngàn năm văn hiến” của Vịệt Nam chẳng hoá ra ngoa ngôn cuồng tín hay sao?


(Nguyễn Đăng Thục – Bốn ngàn năm văn hiến)


Góp nhặt cát đá


Khoảng năm 1972, Lãng Nhân đã viết một bài dài về nghề làm báo thời tiền chiến: “Sở dĩ tôi ham làm báo là vì từ trước vẫn nghe nói chuyện về những thiên tài Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh và đức cần cù của Trần Trọng Kim, nên muốn được học hỏi nơi các “thần tượng” ấy.


Ông Trần Trọng Kim là người cần cù khổ học. Ông có một cái bàn viết thật độc đáo, cả bàn ghế cả đèn đều đặt trong một chiếc màn lớn để tránh muỗi, đêm nào dù đi yến tiệc ở đâu cũng cứ 22 giờ là về, chui vào làm việc cho đến 2 giờ sáng.” (Văn, 10.1.1975)


(Viết văn làm báo thời xa xưa - Phùng Tất Ðắc)


Dòng họ Nguyễn Tường


Sau này, nghe kể, tôi mới rõ chúng tôi từ đâu đến. Thì ra giòng giõi họ chúng tôi hơn 200 năm trước đây, tổ tiên chúng tôi họ Nguyễn, nhưng là Nguyễn Văn. Một ông tổ, đi theo Nguyễn Phúc Chủng (Nguyễn Phúc Ánh). Một hôm tới địa phận Quảng Nam, Nguyễn Phúc Ánh chỉ một ngọn núi cao hỏi tên là núi gì. Ông đáp là núi Phước Tường. Nguyễn Phúc Ánh nói: Nguyễn Phước là họ của ta. Ta ban cho ngươi họ Nguyễn Tường.

Cụ tổ ấy bèn đổi họ sang Nguyễn Tường, và chọn nơi Cẩm Phổ, Hội An, Quảng Nam làm phát tường địa. Đó là cụ Nguyễn Tường Vân, có tên ghi trong Đại Nam Liệt truyện, và từng giữ chức Binh Bộ Thượng Thư, phó Tổng Trấn Bắc Thành...

Cụ Nguyễn Tường Vân có một người con là Nguyễn Tường Phổ, nhiệm chức. Giáo thụ phủ Điện Bàn. Cụ Phổ sinh ra cụ Nguyễn Tường Tiếp, sau có chức vụ là đồng Tri phủ lãnh Thụy Nguyên huyện Tri Huyện ghi trong gia phả. 


Đó là ông nội chúng tôi - và tôi cũng không rõ ông đến làm tri huyện Cẩm Giàng từ thời nào và ông mất năm nào. Mà tôi cũng không biết cha tôi là con út của cụ Tiếp. Cũng không biết tên cha tôi là Nguyễn Tường Chiến với tên húy là Nhu, tôi chỉ biết cái tên sau thôi. Tôi cũng chỉ biết giòng ngoại họ Lê, không rõ là giòng họ Lê này ở Duy Phước, Duy xuyên, tỉnh Quảng Nam. 

Ông ngoại làm đến chức Lãnh binh, và cũng đến Cẩm Giàng. Đó thực là một duyên phận Kỳ ngộ. Một điều đáng tiếc là chúng tôi không rõ cuộc hôn nhân của cha và mẹ chúng tôi là do phụ mẫu xếp đặt hay do tự do luyến ái. Dù sao, cả hai bên đều là khách ly hương, xa quê nhà ở mãi tận miền Trung. Nghe nói, khi cha tôi sắp qua đời, có trăn trối để lời với các con: “Sau này, dù thế nào các con cũng phải tìm về lại quê cha đất tổ”.

Năm 1930, anh Nguyễn Tường Long có về thăm quê và đã cúng vào Văn Miếu làng (Văn chỉ ?), nhà thờ tộc nội ngoại - mỗi nơi một bức hoành. Từ năm 1954 về sau, nghe nói trong họ hàng có đi lại nhiều, nhưng tiếc lúc ấy chúng tôi đã đi xa.

(Nguyễn Tường Bách – Việt Nam, một thế kỷ qua)


Một số chi tiết liên quan tới mối quan hệ 

Thạch Lam- Nguyễn Tuân


1/ Với Vang bóng một thời (1940) Nguyễn Tuân xuất hiện hơi muộn, trong khi Tự lực văn đoàn lúc này đã đến độ chín muồi và hoạt động tương đối khép kín. Nhưng theo chỗ tôi nghe được từ những người thạo về văn học tiền chiến, khi nhìn ra các nhà văn bên ngoài văn đoàn của mình, từ Nhất Linh, Khái Hưng trở đi chỉ phục có Nguyễn Tuân.


2/ Trong thời gian chủ trì tờ Ngày nay, khoảng 1939-1940, Thạch Lam có biệt nhãn với nhiều cây bút mới nổi trong thời gian đó, bất kể họ thuộc dòng phái nào. Trên một chuyến tàu Hà Nội – Hải Phòng, ông ngẫu nhiên bắt gặp Hồ Dzếnh, sau đó đã có bài giới thiệu Chân trời cũ. Thạch Lam cũng đã có một bài viết ngắn về Nguyên Hồng sau Những ngày thơ ấu


Riêng bài viết về Nguyễn Tuân của ông thì mới đây thôi, khoảng 1984-85, còn thấy in lại. Tôi hiện không có trong tay nên không thể trích ra đây được bài này, chỉ nhớ có một ý độc đáo, trong đó Thạch Lam nói rằng chính đức nhẫn nhịn hy sinh mới là một đặc tính ẩn sâu trong lớp người Việt tinh hoa từng thấm nhuần phần tốt đẹp nhất của văn hóa phương Đông và ông đã tìm thấy điều này trong truyện Ngôi mả cũ.


3/ Từ 1956, 1957, khi nhà xuất bản Hội nhà văn ở Hà Nội được thành lập, những người phụ trách liền có kế hoạch in lại một số tác phẩm tiền chiến, nhờ thế mà lớp trẻ năm ấy ở tuổi 14-15 chúng tôi mới được đọc Nước giếng thơi của Nguyễn Bính, Quê mẹ của Thanh Tịnh, Giăng thề của Tô Hoài. Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân và Truyện ngắn Thạch Lam (tuyển tập) cũng ra đời trong dịp này, một của chính Nguyễn Tuân, một do Nguyễn Tuân viết lời giới thiệu.


(Nguyễn Tường Giang)


Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả


“xứ: xứ bộ. → không viết: sứ”. (GS.Nguyễn Văn Khang)


Viết “sứ” mới đúng. Hoàng Phê: “sứ bộ 使部 phái đoàn đi sứ thời xưa”). Nếu “xứ bộ” mang một nghĩa nào khác (kiểu như “xứ uỷ”), thì phải có chỉ dẫn cụ thể để không nhầm với “sứ bộ” 使部. .


(Hòang Tuấn Công)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ


Bỗng nhiên ta gặp lại ta
Bồng bềnh trong cái gọi là nhân gian

Bùi Giáng vẽ tranh


Bộ sưu tập của gallery Tự Do ở trên đường Hồ Tùng Mậu có 2 bức tranh của Bùi Giáng vẽ màu nước / aquarelle trên giấy. 


Một bức khổ 63 x 47,5cm, vẽ chân dung phụ nữ mở đôi mắt quá to, mắt trái lớn hơn mắt phải, trên phông / fond lốm đốm đa sắc kiểu trường phái ấn tượng / impressionisme. Non nửa diện tích phía dưới của bức tranh, cũng trên nền đa sắc lốm đốm, là câu thơ được viết bằng màu vàng: Chị lùa bò vào Hy Lạp mù sương. Góc trái bên dưới, Bùi Giáng ký tên bằng màu nâu thẫm. Có thể lấy nguyên dòng thơ ấy làm nhan đề bức tranh này. 


Còn bức kia khổ 26 x 40cm với gam màu xanh dương, là một tác phẩm tạo hình theo phong cách abstrait - hiểu nghĩa trừu tượng cũng được, mà lơ đễnh cũng được. Bùi Giáng ký tên ở góc phải phía dưới và chưa đặt nhan đề, nên tạm gọi Không đề. 

Trần Thị Thu Hà - chủ nhân gallery Tự Do và là em ruột của Trần Thị Thu Vân tức nhà văn Nhã Ca cho tôi biết rằng bà đã "tậu" đôi bức tranh này từ nhà báo Phạm Mạnh Hiên. 

Bức Chị lùa bò vào Hy Lạp mù sương, bà mua vào năm 1995. Bức Không đề, bà mua ngày 11-4-1996. Cả 2 bức tranh thuộc bộ sưu tập riêng của vợ chồng bà, hoàn toàn không bán. 


(Phanxipăng)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ


Giã từ cõi mộng điêu linh
Tôi về buôn bán với mình phôi pha
(Bùi Giáng)



Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ


Ngày mai mơ mộng làm chi
Sẽ tàn sẽ mất còn gì nữa đâu




Phạm Thị Hoài - 1


“Sống ngay tại trụ sở 38 Hàng Chuối, tôi lại được cái thú là chiều tối thỉnh thoảng ngồi hàng nước góc phố Phạm Đình Hổ xem ông Đỗ Mười mặc pyjama kẻ sọc như quần áo tù ra trước cửa hóng mát và chuyện gẫu với lính gác, lời lẽ thô sơ hơn cả mặt mũi, tăm ngậm miệng, tác phong rất là nhân dân.” [Phạm Thị Hoài]


Trần Vũ: Đọc các tiểu luận Lời thềVĩnh biệt một thời đại, Tiễn chú Kiến GiangBóng tốiNém đá và ân xáSự lạc quan vô tậnNgoại giao Tháp RùaĐọ sức… tôi luôn cảm giác nhiều bản đàn đang trình tấu trong đầu mình. Chúng vang dậy âm thanh. Vì Hoài chú trọng nhịp, phách, tiết điệu, âm tấu của câu văn. Như thế, văn chương là một tập hợp cú pháp trong một ngữ điệu riêng với những ý tưởng cá nhân? Hay còn là một gì khác?


Phạm Thị Hoài: Hồi trẻ, tôi vừa đọc 1984 của George Orwell và Brave New World của Aldous Huxley vừa ngáp. Đọc xong chỉ mệt nhoài chứ không sướng đến từng chân tóc. Đó là loại văn chương trình bày viễn kiến và ý tưởng, nghệ thuật chỉ đóng vai trò phương tiện, đúng như tinh thần “văn dĩ tải đạo”. Truyện Kiều của Nguyễn Du, về nội dung không có gì đáng để ý, chưa kể bối cảnh và các nhân vật xa lạ với xã hội Việt. Nhưng Truyện Kiều thực sự đặc sắc về ngôn từ, nó tôn vinh một thứ tiếng Việt hàm súc, tinh tế, đầy âm điệu và màu sắc, gợi nhiều hơn diễn, một pha trộn thiên tài của ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ hàn lâm. Truyện Kiều là loại nghệ thuật vị nghệ thuật tuyệt vời nhất. Song đôi khi ta sôi máu muốn ngồi ngay vào bàn viết không phải do cảm hứng từ những tác phẩm kiệt xuất, mà vì quá bực bội trước những tác phẩm giẻ rách của người khác, cho đến khi ta nhận ra rằng mình chỉ làm môi trường thêm ô nhiễm bằng những trang tầm phào.


(Trần Vũ thực hiện)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ


So với cái mênh mông của vũ trụ
Thì nỗi buồn hạt bụi có ra chi


Phạm Thị Hoài - 2


Trần Vũ: Pamuk còn đưa ra một giả thuyết bí mật: “Nhà văn, là kẻ dành nhiều năm dài để thử khám phá con người thứ nhì sinh sống trong mình hắn.” Khi rời Viện Sử học, Phạm Thị Hoài bắt đầu đi tìm “con người thứ nhì” này trong cơ thể mình? Đến truyện ngắn Người Đoán mộng Giỏi nhất Thế gian thì tìm thấy và khi chuyển sang thể tiểu luận, tìm ra một phụ nữ khác đang ẩn nấp? Phạm Thị Hoài là ai?


Phạm Thị Hoài: Tôi là một phụ nữ cao 152 cm, nặng 47 kg, mặc cỡ S, đi giày số 34, huyết áp 110/70, đeo kính, tóc cắt ngắn, không sơn móng tay, có cấu trúc mạch lạc, làm từ một số vật liệu bền chắc, chịu được nhiều cọ xát và áp lực. Nếu không viết văn, tôi có thể làm rất nhiều nghề, trừ làm người mẫu, diễn viên  Nhưng tôi đã chọn văn chương làm cách sống, từ năm 11 tuổi. Đơn giản là một trong những lựa chọn có thể. Không có gì huyền bí cả. Không có thiên chức, sứ mệnh gì. Tôi vẫn đang hài lòng với lựa chọn đó. Ngay cả khi không viết gì hết, văn chương với tôi vẫn là cách sống quy định mọi mặt khác của cuộc đời..


(Trần Vũ thực hiện)


Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt - 1


“Nước” Xích Quỷ biến đi đâu? 
Không biến đi đâu hết. Ở đâu còn nguyên đó. Đất cũ người cũ. Thêm người mới khoác áo văn hoá mới. Nhìn trên bản đồ, bờ cõi nước Xích Quỷ hầu như phân nửa bờ phía Nam sông Dương Tử: Bắc giáp Động Đình Hồ, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải.


Tại sao thình lình không gian của Lạc Long Quân tức Hùng Vương thứ nhất rộng lớn đến thế, đời Hùng Vương thứ 18 khi bị Thục Phán diệt, chỉ còn lại đồng bằng sông Hồng? 

(Trần Thị Vĩnh Tường)


Bài thơ Con Cóc qua nhận định 

nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc


Mặc Lâm: Cho tới lúc này thì tôi cảm thấy bị anh thuyết phục hơi nhiều...nhưng thưa anh cái cốt lõi ở đây vẫn là một điều gì đấy quan trọng hơn bản thân sự hay không hay của bài thơ mà anh muốn hướng tới phải không?


Nguyễn Hưng Quốc: Nếu bài thơ Con Cóc là một bài thơ hay thật thì quan hệ giữa nó và ý nghĩa bài thơ như thế nào? tôi muốn nói tới nhà phê bình. Đâu là giới hạn của nhà phê bình, cách diễn dịch như vậy có hiệu quả gì...nó liên quan tới việc viết và việc đọc. Nó liên quan đến văn học là lịch sử của điều viết hay những điều được đọc v..v. .


(Mặc Lâm, phóng viên đài RFA)


Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt - 2


Di cư: Như trên đã nói, một cuộc di tản rất lớn xảy ra, kéo dài hàng mấy trăm năm, trước/sau khi nước Sở bị diệt vong. Đám chi Âu, chi Lạc chạy khỏi địa bàn nước Sở. Khi đi, mang theo tất cả những truyền thuyết tổ tiên đến địa bàn mới. Ngay như tên người Việt bây giờ vẫn tự gọi: người Kinh - để phân biệt với người Thượng - có thể tên châu Kinh đất cũ còn trong ký ức. 


Có lẽ nên hiểu truyền thuyết Hồng Bàng là cổ sử của chủng Yueh/Việt, hơn là cổ sử riêng của Việt Nam. Biên cương rộng lớn của Xích Quỷ hé mở đôi điều, nếu hiểu theo quan niệm của tác giả truyền thuyết Hồng Bàng về thời lưu cư ở Động Đình Hồ: 

  1. Chủng Việt, khác với chủng Hoa Hạ 

  2. Hễ đồng chủng, là cùng một “nước” 

  3. Có rất nhiều bộ tộc Việt sống xen kẽ trên cùng địa bàn Xích Quỷ 

  4. Vì xen kẽ, nên mượn qua mượn lại truyền thuyết/cổ tích của nhau 

  5. Người/tiếng Việt đi tới đâu, biên giới Xích Quỷ đi đến đó 

  6. Người Trung Hoa bây giờ cũng là một pha trộn = Hoa Hạ + Việt, cả DNA và tiếng nói. 

  7. Lãnh tụ đầu tiên Lạc Long Quân hoàn toàn thuộc chủng Việt, mang hai giòng máu Âu và Lạc, không lai một chút Hoa Hạ nào hết.


(Trần Thị Vĩnh Tường)


Ai là người dịch Chinh phụ ngâm


Non một thế kỉ sau, Nam Hải dị nhân liệt truyện của Phan Kế Bính chép truyện Nguyễn Thị Điểm. Có lẽ Phan Kế Bính đã dựa vào sách Đăng khoa lục sưu giản nên vẫn giữ đúng tên Nguyễn Thị Điểm cùng các giai thoại của Trần Tiến kể trong sách này cộng với giai thoại của Tang Thương ngẫu lục

Đăng Khoa lục sưu giảng và Tang Thương ngẫu lục kể 2 câu chuyện na ná nhau nhưng sách thì ghi là Nguyễn Thị Điểm, sách lại ghi là Đoàn Thị Điểm. Để hòa giải Phan Kế Bính trong Nam Hải dị nhân liệt truyện đã chọn giải pháp dĩ hòa vi quý nên chú thích một câu ở cuối truyện: “Nguyễn Thị Điểm tức Đoàn Thị Điểm...”. 


Đọc đến đây, ta không khỏi băn khoăn: Sao Nguyễn Thị Điểm mà lại là Đoàn Thị Điểm được? Vậy thì Nguyễn Trác Luân hẳn phải là Đoàn Trác Luân ư? Rõ ràng cách hòa giải này của Phan Kế Bính không thể chấp nhận.

Nhìn chung, các truyện xưa tích cũ được các sách trên ghi chép cũng chỉ là lời đồn đãi trong dân gian, mang tính cách của truyền thuyết, như lời của Phan Kế Bính: “...Nước Nam ta từ xưa đến nay, trải hơn 4.000 năm, chẳng thiếu gì người tài đức, người danh tiếng; nhưng bởi vì sự tích xa xôi mà không rõ, hoặc vì sử sách biên sót mà không tường...”


Sách Đăng Khoa lục sưu giảng và Tang Thương ngẫu lục không nói gì đến bà Đoàn Thị Điểm dịch Chinh Phụ ngâm ra chữ Nôm; ngoài ra, bản in Chinh Phụ ngâm diễn âm do Hiệu Trường Thịnh khắc ở Hà Nội khoảng thời Tự Đức là bản xưa nhất giống với bản diễn âm hiện hành cũng không ghi tên người dịch là Đoàn Thị Điểm. Năm 1944, Trúc Khê (1) Ngô Văn Triện về Hải Dương tìm đọc gia phả họ Đoàn (Đoàn thị thực lục) cũng không hề thấy gia phả ghi việc bà Đoàn Thị Điểm dịch Chinh Phụ ngâm

Trúc Khê viết: “Bản Chinh Phụ ngâm khúc có thể không phải của bà Đoàn Thị Điểm, vậy mà trong Nam Hải dị nhân liệt truyện, Phan Kế Bính lại khẳng định (sic) tương truyền bà Nguyễn Thị Điểm là người đã diễn Chinh Phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn ra chữ Nôm”


(Nguyễn Cẩm Xuyên)


(1) Trúc Khê: "Những tài liệu mới về nữ sĩ Đoàn Thị Điểm", Tiểu thuyết thứ Bảy, số 4.


Văn học cổ 


Về chuyện “vay mượn”, mới đây có người cho biết bài thơ “Đánh cờ tướng” rất nổi tiếng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng mượn ý bài dân ca vùng Tô Châu bên Tàu. Chúng tôi xin chép lại nguyên văn để chúng ta cùng biết và nghiên cứu thêm:
 “Cờ tướng tương truyền do Chu Vũ Vương phát minh lúc đánh vua Trụ, loại cờ tướng này mô phỏng việc đánh nhau trên chiến trường, cũng là loại cờ mà phụ nữ thời cổ lúc nhàn rỗi rất thích chơi. Phùng Mộng Long cuối thời Minh có chép lại một bài dân ca Tô Châu nói về việc trai gái chơi cờ tướng như sau: 

Thu liễu vi kỳ trước tượng kỳ. Thạch pháo đương đầu tu phòng lưỡng hiệp xa, Ngã chỉ đạo nhĩ song mã ẩm tuyển xoa khởi liễu cá dương giác sĩ, Dạng đạo nhĩ nhất tốt chiếm tâm giáo ngã nan động di” (Xếp bàn cờ vây bày bàn cờ tướng, Thấy pháo đầu phải đề phòng xe thọc hai bên, Em chỉ nghĩ anh cho hai ngựa uống nước nên cho sĩ vểnh sừng dê, Ngờ đâu con tốt của anh vào cung khiến em không động đậy gì được)”


Sau đây là một đoạn trong bài “Đánh cờ” của Hồ Xuân Hương:
Thoạt mới vào, chàng liền nhẩy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp sợ bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Đem tốt đầu dú dí vô cung.
Thiếp đang mắc nước xe lồng, 
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu...


Chúng ta đều biết Hồ Xuân Hương sống vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 mà triều nhà Minh bên Tàu chấm dứt vào cuối thế kỷ 16.

Thực ra, đã từ lâu cũng đã có người nghi ngờ bài “Đánh cờ” không chắc có phải do nữ sĩ sáng tác

Đây là một nghi vấn trong văn học Việt Nam cần được các bậc thức giả trong cũng như ngoài nước nghiên cứu thêm.


(Văn học cổ VN – Tạ Quang Khôi)


Hà Nội phố


Phố: trong từ điển của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651, từ này chỉ một “con đường có các cửa hàng buôn bán” (Rhodes,1651: 602). 

Ðiều đáng ghi nhận là phủ Hoài Ðức khi xưa (thuộc tỉnh Hà Nội được lập vào năm 1831 vào thời Minh Mạng) chỉ có một phố duy nhất là Tân Hội (nằm trên địa phận của xã Ðường Lâm ngày nay). Ðiều này cũng chứng tỏ là vào thời đó, ngoài Thăng Long ra, 

đồng bằng sông Hồng có rất ít phố. Các phố có lẽ rất nhỏ: chỉ gồm vài cửa hàng, quán ăn và quán trọ.


(Vài tâm đắc về làng xà VN – Nguyễn Tùng)


Phường


Phường chỉ một xã ở đô thị hay một xã mà dân cùng làm một nghề, hay buôn bán. Trước thời Pháp thuộc, phủ Hoài Đức (tức nội thành Hà Nội ngày nay) có rất nhiều phường. Phường thuỷ cơ là làng ở trên sông (Vạn Chài?). Theo Pierre Gourou (1965: 437-442), vào những năm 1930, nó “gồm toàn thuyền hay bè, dân làng sống bằng nghề đánh cá hay thương thuyền”.


Phường tứ chiếng gồm toàn dân “tứ chiếng”, tức là những người đến từ nhiều nơi, nên có gốc gác không rõ. Hai thành ngữ trai tứ chiến và gái giang hồ thường sóng đôi nhau với nghĩa xấu. Giáo phường gồm những gia đình làm nghề hát xướng, đàn địch. 


(Vài tâm đắc về làng xà VN – Nguyễn Tùng)


Khoa trương trong ca dao của người Việt


Hay sử dụng động từ lãng mạn hơn, bay bổng hơn là một chiếc cầu được làm bằng một ngọn mồng tơi, một cành hồng:

Gần nhà mà chẳng sang chơi

Để anh bắc ngọn mùng tơi làm cầu.


Hoặc giả như:

Đôi ta cách một con sông

Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.


Trong những trường hợp này, “ngả” và “bắc” là những ngoại động từ chỉ có ý nghĩa khoa trương khi có bổ ngữ đi kèm.


(Nguyễn Ngọc Kiên)


Từ điển và từ ngữ Việt Nam


Những sai lầm trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân


tình chung 

Ðọc đến từ này, kẻ viết bài này nhớ ngay đến câu thơ 791-792 trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: 
Biết thân đến bước lạc loài, 
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung

Chưa cần cắt nghĩa từng từ tố, khiến người đọc cảm nhận rằng, “người tình chung” là người yêu chỉ có một ở trên đời. Và như vậy thì từ tình chung không phải là một danh từ để chỉ mối tình bền chặt, thuỷ chung, mà đó là một tính từ. 
Theo soạn giả tình chung là mối tình chung thuỷ. Nghĩ như vậy có lẽ chỉ vì ông vẫn thường nghe nói đến “mối tình chung thuỷ” là mối tình trước sau như một (trong đó, chung nghĩa là cuối, thuỷ nghĩa là bắt đầu). Nhưng ông đã lầm to, mà lầm là phải.. 

tình chung là một từ gốc Hán đã được Việt hoá, có lẽ nhờ ngòi bút của Nguyễn Du mà nó càng trở nên quen thuộc và có hồn hơn. Nó vốn là từ chung tình 情 trong tiếng Hán, trong đó, chung nghĩa là tụ lại, là đúc kết lại, tình nghĩa là tình cảm, tình yêu, v. v., và, chung tình (là một tính từ) nghĩa là mang một tình yêu bền chặt như đúc thành một khối. Chúng tôi đã xem lại văn bản 


Truyện Kiều bằng chữ Nôm (bản Liễu Văn Ðường) thì thầy răng, từ tình chung được viết là…, trong đó, chữ chung 鍾 nghĩa là tụ lại, là đúc kết lại chứ không phải chữ chung 終 là cuối như soạn giả đã đoán bậy. Xin lưu ý rằng, trong chữ Nôm, cha ông ta cũng phân biệt hai chữ chung này. 
Ở các câu 389-390 trong Truyện Kiều: 
Duyên kia có phụ chi tình, 
Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai? 

Nguyễn Du đã sử dụng từ chung tình với nghĩa giống như từ tình chung ở trên. 


(Lê Mạnh Chiến & H.H.Phúc)


Một số sai lầm khi dùng từ Hán-Việt


Tiếng Hán-Việt là một phần trong tiếng Việt lâu đời Vì vậy khi nói hay viết tiếng Việt, thỉnh thỏang chúng ta đều có dịp dùng từ Hán-Việt Và do nhiều nguyên nhân khác nhau, vô tình có thể mắc phải một số sai lầm. Chúng tôi xin nêu ra một ít những sai lầm ấy mà chúng tôi góp nhặt được theo sự hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi:


Sai lầm vì không phân biệt từ Hán và từ Nôm.

Nguyên tắc từ Hán đi với Hán, từ Nôm đi với Nôm, không nên dùng lẫn lộn. Ngày nay, chúng ta.không nói góa phụ (góa là chữ Nôm, phụ là chữ Hán) mà nên nói “quả phụ” hay đàn bà góa.


(Lưu Khôn)


Cua cáy phiếm lược


Ca dao về cua, còng


Cái bống đi chợ Cầu Canh
Cái tôm đi trước củ hành theo sau
Con cua lạch bạch theo hầu
Cái chày rơi xuống vỡ đầu con cua


Sư đang tụng niệm nam mô
Thấy cô cắp giỏ mò cua bên chùa.
Lòng sư riêng những ngẩn ngơ,
Bỏ kinh, bỏ kệ, tìm cô hỏi chào.
Ai ngờ cô đi đàng nào,
Tay lần tràng hạt ra vào băn khoăn.


Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua
Bắt cua làm mắm cho chua
Gởi về quê nội khỏi mua tốn tiền.


(xem cua Huỳnh Đế, Bình Định ở dưới)


Đọc truyện & Xem phim “Bác sĩ Zhivago”


Yuri và Lara được bổ nhiệm công tác chung tại một nhà thương ở tỉnh nhỏ miền Nam. Vì cá tính lãng mạn, chàng thường bị các đồng nghiệp “bolshevik” bài bác là thiếu “logic” và không có tinh thần cách mạng. Trong bối cảnh của cuộc xung đột chống chủ nghĩa Marx nổ ra, Yuri cùng gia đình phải dời về Urals.


Trên xe lửa của chuyến đi này, Yuri nhận thức được nỗi khổ của nông dân và tù binh, những nạn nhân của cuộc cách mạng. Vốn là người yêu chuộng tự do và nhân quyền nên Yuri bất mãn với những hành động hay chính kiến quá cứng rắn và thiếu tình người của những người theo cách mạng.


Thập niên 30, Sài Gòn lai rai


Dân miền Nam nói chung không quá vất vả cho việc kiếm miếng ăn, nên chuyện nhậu nhẹt phổ biến, có người lai rai chút ít cho vui đời, dễ kết thân bạn bè và trong số đó hình thành những bợm nhậu. Số đông thích ra quán khỏi phải phiền vợ con phục vụ hay rầy rà, nhiều gia đình lại thích ăn uống ở nhà vừa rẻ vừa sạch, nhất là dịp tết lễ thì tụ tập nhậu ở nhà. Ngày Chủ nhật, ngày Tết chỉ cần rảo một vòng Sài Gòn - Chợ Lớn là có đủ các món nhậu như lạp xưởng, vịt quay hiệu Xảo Ích hay lạp xưởng Nam Vang, khô nai Biên Hòa, vịt lạp chợ La Kai, khô cá thiều Phú Quốc, bánh phồng tôm Sa Giang...


Rượu thì ngoài rượu Tây như rượu vang hiệu Bordeaux, cô nhắc như Martel hay Bisquit Dubouché hiệu Ông Già, còn có Ngũ Gia Bì, Mai Quế Lộ của Tàu… hoặc vô hãng Quảng An Thành số 30 đường Paul Beau, Chợ Lớn mua rượu Hổ Cốt Cọp Đen, rượu Huyết Bò, rượu Bìm Bịp, rượu Hồ Huê Lộ, vân vân.


Tuy vậy, ngồi quán xá ăn nhậu luôn vui hơn, hấp dẫn hơn và cũng dễ… sinh chuyện hơn. Câu thơ phổ biến của ai không rõ: “Một ly nhâm nhi tình bạn/ Hai ly uống cạn lòng sâu/ Ba ly mũi chảy tới râu/ Bốn ly ngồi đâu gục đó/ Năm ly cho chó ăn chè/ Sáu ly vợ đè cạo gió” với ngôn ngữ rất Nam bộ.


(Phạm Công Luận)


Tiểu sử  Phạm Công Luận bút danh Phạm Lữ Ân. Sinh năm 1961 tại Sài Gòn. Quê nội Quảng Bình, hiện ở Phú Nhuận. 

Tác phẩm: Nếu biết trăm năm là hữu hạn  - Những lối về ấu thơ  

Trên đường rong ruổi - Sài Gòn chuyện đời của phố 1, 2, 3 & 4


Trên tuyến tàu xưa Gò Vấp-Sài Gòn


Xe điện rời ga Đất Hộ (Đakao) theo đường Phan Đình Phùng rồi quẹo vào đường Mạc Đĩnh Chi (rue de Bangkok) ra đường Thống Nhất (Norodom thời Pháp) rồi dọc theo Cường Để, Bến Bạch Đằng rồi quẹo vào Hàm Nghi (de la Somme về chợ Bến Thành.

Ngày xưa đường Phan Đình Phùng nằm cuối khu vực Nguyễn Bỉnh Khiêm (kho đạn cũ, sau lưng đài phát thanh Quân Đội ) và kéo dài ra đến đường Lý Thái Tổ. Sô 3 Phan Đình Phùng là đài phát thanh Sài Gòn Đường Đinh Tiên Hoàng bắt đầu từ đường Hồng Thập Tự về phía Đakao có sân vận động Hoa Lư, về phía đường Thống Nhất có khu đại học trước là thành lính Pháp rôi thành của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống.


Đường thẳng vào cửa chính là Cường Để (thời Pháp Boulevard Luro, phía trước là đường Norodom -Thống Nhất, kiến trúc bên trái sau 1963 xây dựng lại thành Đại Học Dược Khoa, bên trái là Văn khoa, phía sau hai kiến trúc này là Cao Đẳng Nông Lâm Súc có lúc đổi tên là Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp. 


Nơi đây người ta sẽ tìm thấy sinh họạt chính trị và văn nghệ sôi nổi cúa một thời sinh viên thập niên 60 và đầu thập niên 70, chúng ta sẻ thấy Khánh Ly, Hoàng Oanh, Thanh Lan, Trịnh Công Sơn và các tay lành đạo tổng hội Sinh Viên Saigon.


Đại Học Dược Khoa, Cao Đẳng Nông Lâm Súc


Xe điện chạy dọc theo Cường Đề qua xưởng Ba Son, xưởng đầu tiên ở Sài Gòn, do Nguyễn Ánh (vua Gia Long) lập ra đề đóng chiến thuyền. Xưởng Ba Son nằm trên ngã ba sông, nơi tiếp giáp giữa sông Sài Gòn và rạch Thị Nghè, trong đó có 6 cầu cảng tổng cộng 750m. Ngày xưa nơi đây vùng sình lầy nước đọng nên thường được dùng làm nơi đậu tàu và sửa chữa tàu. Sau khi chiếm được Sài Gòn – Gia Định, năm 1861 Pháp cho làm ụ tàu trên thủy xưởng đã có, tức là mảnh đất Ba Son bây giờ.

Xe điện sau khi rời đường Cường Để (Luro thời Pháp) đi dọc theo Bến Bạch Đằng, thời Pháp Le Myre de Vilers), Công trường Mê Linh, công trường này thời Pháp khoảng 1910 có tượng của Đô đốc Rigault de Genouilly và Doudard de L’Agree) Thời VNCH có tượng Hai bà Trưng. Đây là địa điểm hẹn hò, hóng gió mát từ sông Sài Gòn của giới trẻ.

Công trường Mê Linh khoảng 1910 có tượng của Đô đốc Rigault de Genouilly


(Y Nguyên - Mai Trần)


Phỗng


Phỗng là hình người nặn bằng đất đặt trong những nơi thờ tự (sic) xưa. Vì bàn tay người tạc không khéo nên mặt phỗng ngây ngô, ngỗng nghễnh:

ngây như ngỗng. Có khi phỗng được tạc bằng đá.

Thấy phỗng đá lạ lung đến hỏi

(Nguyễn Khuyến)


Phỗng sành là phỗng làm bằng đất nung, men sứ, sành.

Ở phố hàng Nâu có phỗng sành

Mặt thì lơ láo mắt thì nhanh

(Tú Xương)


Phỗng cũng là tiếng dùng trong tổ tôm, mạt chược, khi một người có hai quân bài giống nhau,có quân thứ ba lên, bất cứ cửa nào cũng ăn được.


Phỗng là tiếng phát âm Việt từ tiếng Quảng Đông. Chữ Hán đọc đúng là phanh.


(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)


Ngôi sao Hàn Thuyên


Sáu năm không gặp mặt, chỉ một thoáng nhíu mày, anh đã nhận ra tôi. Duy lần gặp lại đó, chứ không phải sau này, anh để râu, chịu giải phẫu nhiều lần, héo hắt vì ung thư tàn phá, tôi thấy anh già hẳn. So với cái hình ảnh Quần Tín tôi còn giữ được nguyên vẹn về anh, sáu năm về trước. Có phải là sau những biến thiên, đều không nhiều thì ít, đã thả xuống những mái sống rực rỡ nhất, những phiến bóng rợp ngậm ngùi buồn bã? Có phải là sau một lựa chọn, một thay đổi, cũng cứ là đã lẻn nhập vào những cõi tinh thần vững vàng, tích cực nhất, những hoài nghi phảng phất ở chính mình? Có phải là rũ bỏ một quá khứ hành động, cho là rũ bỏ thuận tình đến đâu, cũng vẫn trong tâm linh bâng khuâng, những bóng ma cũ thấp thoáng? Những điều đó, nếu có, anh không nói ra với tôi. Anh chỉ già đi, thế thôi. Ngừng viết, ung dung, trong cái phong cách thoải mái của một người hoà thuận với thêm một hoàn cảnh nữa của đời mình, anh hỏi thăm tôi về một số người ngoài kia, khoảng thời gian anh đã bỏ đi, tôi còn ở lại. Sơ sơ về hết thảy. 


Tạp chí Văn, số tháng 6, 1974


Nhiều về những đồng hành cũ thời Hàn Thuyên. Về Đặng Thái Mai, anh gật: "Ở lại, đành rồi. Anh ta không thể làm khác". Về Trương Tửu, anh suy nghĩ rồi mơ hồ: "Muốn làm cách mạng phải có đủ ba thứ Courage, Morale, Intelectuelle. Physique nữa"

Về anh, đang viết Nhân Bản Mới trên bàn viết Đời Mới: "Họ là một cản trở mình, mình cũng là một cản trở lớn cho họ. Ở lại, mình bị đẩy làm toa đen cho họ kéo. Tội gì". Mỉm cười, anh tiếp, giọng bông đùa: "Về đây, may ra mình làm được ông đầu tàu, kéo được vài toa đen làm đồng hội đồng thuyền, khỏe hơn". Với Đàm Trường Viễn Kiến, với Di Ngôn đi theo người muốn trở về cát bụi hoàn toàn, bằng hỏa táng hình hài, anh Quỳnh không ngừng nỗ lực làm cái điều anh nói với tôi ở Đời Mới hôm đó.

(Mai Thảo)


Gỏi đu đủ bò khô


Món khô bò đu đủ bào ngon như thế nào phải nghe ông tổ sư ẩm thực Vũ Bằng tán. 


“Có ai một chiều nào nhàn tản trên con đường Pasteur, ở ngã ba Lê Lợi, có thấy hàng toán người tề tựu ở trước chùa Chà họ ăn, họ uống, và uống và ăn để làm thỏa mãn cái dạ dầy nhiều đòi hỏi. Có người đứng ăn; có người ngồi ghế ăn; có người ngồi ở xe máy dầu gác chân lên hè để ăn; có người ngồi xổm trên hè để ăn; lại có người hãm xe hơi lại, thò đầu ra ngoài kêu ăn. Họ ăn gì vậy? Ăn bánh tôm; ăn bì bún; ăn bánh mì phá lấu; ăn ốc; ăn bánh canh giò heo; nhưng muốn gì thì gì, món được người ta thưởng thức nhiều nhất, nồng nhiệt nhất và thành tín nhất vẫn là món đu đủ bào, rưới rất nhiều giấm ớt lên trên. 


Các ông ưa quá, mà các bà các cô lại ưa hơn; ăn một đĩa rồi lại muốn ăn đĩa thứ hai, thứ ba…. Chính tôi đã thấy có một bà ăn chơi sơ sơ một lúc sáu đĩa như thế rồi xuýt xuýt xoa xoa, chảy cả nước mắt nước mũi mà có vẻ như vẫn còn thèm ăn nữa. Ờ, cái món đu đủ bào trộn giấm ớt đó là gì vậy? Thưa, đó là khô bò. Đu đủ bào, trên đặt mấy miếng khô bò, tưới giấm ớt rồi rắc mấy lá ngò lên trên đó, chỉ giản dị có thế thôi, vậy mà ăn vào…phải biết! Ngon chết người đi được!”.


(Song Thao)


10 câu nói của Tào Tháo


10 câu nói nổi tiếng nhất của Tào Tháo vẫn còn giá trị cho đến ngày nay


“Kẻ nhận mình sai chẳng khác nao nói mình nhu nhược”


(Sưu tầm và biên soạn: Huy Phương)


Chữ nghĩa làng văn


Nói chuyện cùng nhà văn Trần Thị NgH. - 2


Minh Thùy: Truyện ngắn đầu tiên của chị là truyện gì, khi mới bắt đầu viết chị có gặp khó khăn khi gửi truyện đến các tạp chí văn học không, vì chưa có tên tuổi trong giới văn nghệ?


Trần Thị NgH.: Truyện ngắn đầu tiên để chuyền tay nhau đọc được viết rất sớm, lúc còn học tiểu học. Để đăng báo ngày là những truyện viết trong thập niên 60. Đầu thập niên 70 mới gửi đến các tạp chí có vẻ cây đa cây đề, sừng sỏ trong giới văn nghệ như tờ Vấn Đề, Văn…


Truyện ngắn đầu tiên được gửi đến tạp chí Văn – lúc đó anh Trần Phong Giao làm tổng thư ký không được chọn đăng. Nhưng cũng truyện đó khi gửi sang tạp chí Vấn Đề của Mai Thảo thì được chọn. Bắt đầu như vậy không thấy có khó khăn gì, thấy rất vui. Truyện có tựa là Chủ Nhật, viết năm 1968 nhưng mãi mấy năm sau mới dám gửi đăng.


(Minh Thùy phỏng vấn)


Tiểu sử : Trần Thị NgH. tên thật: Trần thị Nguyệt Hồng

Sinh ngày 18.4.1948 tại An Xuyên, Cà Mau. Hiện ở Sài Gòn.

Tác phẩm : Những ngày rất thong thả (1975), Tập truyện ngắn Trần Thị NgH. (1999), Lạc đạn và 10 truyện ngắn (truyện dài, 2000), Nhăn rúm (tuyển tập truyện ngắn).


Trần Đức Thảo và chầu hát ả đào giữa cánh đồng


Ông Tuân lên tiếng nói một cách trân trọng : “Hôm nay tôi lén tổ chức chầu hát này để để đãi ông bạn ở bên Tây về. Yêu cầu em Đức hát cho đạt chỉ tiêu đấy nhé”.

Cô ca nương nhìn Thảo rồi đáp : “ Anh Tuân ơi.  Anh ép thì em cũng cố mà hát đấy thôi.  Bởi vì em đã giải nghệ từ mấy năm nay rồi.  Nếu công an mà biết thì em đi tù mất”.  Ông Tuân nói : “Không sao đâu, anh lo hết rồi.  Cứ hát đi.  Có ông chủ tịch xã kiêm trưởng công an ngồi đây nghe còn sợ gì”.


Và tiếng trống đàn chậm rải vang lên, trầm bổng thánh thót trong đêm khuya thanh vắng.  Rồi một giọng ca trong vắt ngâm nga, luyến láy, vẳng lên giữa cánh đồng vằng vặc ánh trăng : 

Giang san một gánh giữa đồng,
Thuyền quyên “ứ hự” anh hùng nhớ chăng?

“..ứ…hự”,… “..ứ…hự”…“tom chát”. Tiếng hát, tiếng đàn, nhịp trống bỗng đưa tâm hồn mọi ngưởi nhập vào một không khí gợi cảm, trữ tình của nghệ thuật.


Triết gia Trần Đức Thảo, lần đầu tiên được nghe tiếng hát luyến láy, ngâm nga thâm nhập tâm can.  Ông say sưa khen ngợi : “Tiếng hát tiếng đàn sao có thể thuần khiết âm vang sâu thẳm đến thế.  Tiếng trống bắt nhịp thật tuyệt vời như khuyến khích ca nương. Sao thứ dân ca này có thể nghệ thuật đến thế.  Hay như vậy, sao lại cấm ?”.

Ông Tuân giải thích : “Tại vì xưa kia nó phục vụ giới quan lại, phú hộ thời phong kiến”. Xin mời tiếp tục.  Tay đàn, tay trống và ca nương đều biểu điễn với tất cả sở trường y như đang làm sống dậy giây phút thanh bình của đất Hà thành xa xưa.  Tiếng hát ả đào trùng hợp với tâm tư và hoàn cảnh của từng người lúc ấy.


Trần Đức Thảo sinh ngày 26/9/1917. Năm 1943 tốt nghiệp Thạc sĩ Triết học. Năm 1951 ông về nước. Những năm 1958-65 khi ông bị cấm giảng dạy, bị ‘’đi chăn bò ở Tuyên Quang’’ vì vướng vào vụ Nhân văn Giai phẩm. Ông mất ngày 24.4.1993 tại Paris. 


***


Phụ đính 


Lá diêu bông


Phạm Duy, bạn của Hoàng Cầm, phổ bài thơ Lá diêu bông thành ca khúc, từng viết Hoàng Cầm trong tôi tại California, vào năm 1984 nêu cách giải thích: "Trước hết chúng ta cần biết lá diêu bông là lá gì? Lá diêu bông (lá bông diêu thì đúng hơn) là thứ lá đặc biệt ở làng Đình Bảng, Bắc Ninh, phụ nữ thời xưa thường vắt ra nước rồi bôi lên mặt cho da dẻ được hồng hào tươi đẹp”.


Nhưng theo Hòang Cầm: Lá diêu bông là cái lá gì, ở đâu, nào tôi có biết. Thần linh đọc diêu bông, tôi chép diêu bông, thế thôi".


(Phanxipăng)



Xem  lại :

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét