31 thg 1, 2025

ĐÓN TẾT NƠI XỨ NGƯỜI - Thơ Tân Tăng -SPSG


ĐÓN TẾT NƠI XỨ NGƯỜI

Xứ người đón Tết nhớ quê hương
Vừa buồn vừa tủi nhớ người thương:
Gia đình, bạn hữu, Thầy Cô giáo
Trường cũ, làng xưa luống đoạn trường
Nhớ Tết xa xưa thuở thiếu thời
Lòng còn thanh thản, mộng xanh tươi
Thức đêm cùng mẹ canh nồi bánh
Bếp hồng rực lửa ấm tim tôi
Bây giờ quê mẹ khác xưa rồi
Tình người thiếu hụt thảm thương ôi
Lòng đường xe kẹt, lòng người hẹp
Muốn về ăn Tết, bỗng dưng…thôi
Ai hiểu lòng tôi, hiểu lòng tôi?
Ở lỳ nơi đất khách quê người
Không về chốn cũ thăm người cũ
Xuân buồn thấm thía tuyết Đông rơi!

(27-01-2025) 

Robot AI giống bạn gái xinh đẹp

 Robot Eliza hứa hẹn trở thành bạn đồng hành với con người nhờ biểu cảm chân thực, chuyển động nhuần nhuyễn và trò chuyện tự nhiên, cùng với gương mặt hoạt họa làm từ silicone.

Hình dáng của robot AI Eliza. Ảnh: Eliza Studios

Hình dáng của robot AI Eliza. Ảnh: Eliza Studios

ElizaOS, một tác nhân trí tuệ nhân tạo nổi tiếng, sẽ có hình dạng cơ thể người với khả năng trò chuyện, chia sẻ câu chuyện và tăng cường kết nối ý nghĩa. Eliza Wakes Up, sáng kiến đưa những tác nhân AI cao cấp vào đời thực thông báo nhận đơn đặt hàng trước cho robot cá nhân "Eliza". Theo họ, dự án tìm cách định nghĩa lại quan hệ giữa con người và AI thông qua kết hợp robot tiên tiến và AI thành bạn đồng hành đầy đủ chức năng và biết tương tác, Interesting Engineering đưa tin.

"Eliza được thiết kế như một bạn gái thực sự với trí thông minh cảm xúc, mang lại tình bạn giống như con người. Không phải chỉ là mã hóa và dữ liệu, Eliza có suy nghĩ, cảm xúc và kinh nghiệm riêng", Ava, giám đốc dự án ở Eliza Wakes Up, cho biết.

Robot hình người Eliza cao 1,78 m được tạo ra thông qua hợp tác với Old World Labs, công ty robot thành lập năm 2012, được thiết kế để thu hút người sử dụng với biểu cảm gương mặt, chuyển động cơ thể và nói chuyện tự nhiên. Eliza sở hữu gương mặt làm từ silicon. Để thực hiện tương tác thích hợp theo thời gian thực, robot trang bị hệ thống AI cao cấp. Nó có thể chạy 1,6 km trong 8 phút và xử lý nhiều nhiệm vụ khác, bao gồm hoạt động đòi hỏi độ chính xác như phục vụ đồ uống.

Ngoài ra, robot Aliza có âm thanh xuất sắc để giao tiếp rõ ràng. Tính cá nhân hóa được đảm bảo thông qua những phụ kiện tùy chọn. Một hệ thống lắp đặt và lưu trữ chắc chắn đảm bảo tích hợp robot trơn tru vào bất kỳ bối cảnh nào. "Là dự án tham vọng nhất sau robot Sophia, Eliza sẽ định nghĩa lại khả năng của robot khi kết hợp công nghệ robot tiên tiến, AI và blockchain", Matthew Graham, cố vấn của Eliza Wakes Up kiêm đối tác quản lý của Ryze Labs, cho biết.

Eliza điều chỉnh theo nhu cầu, giải quyết công việc như quản lý lịch trình, tham gia mạng xã hội, tự động nghiên cứu, xử lý tài liệu và giao dịch blockchain. Ngoài tính thực tế, công nghệ AI cũng cho phép nó giải mã những dấu hiệu cảm xúc, tăng cường quan hệ với con người thông qua thấu hiểu và đồng cảm. Những robot đầu tiên sẽ được giao cho khách hàng giữa năm 2025.

An Khang (Theo Interesting Engineering)

30 thg 1, 2025

GIÁP TẾT & CỮ CÀ PHÊ BẠN BÈ - Đặng Việt Lợi

GIÁP TẾT

 CỮ CÀ PHÊ BẠN BÈ
Têt còn hai bữa nữa
Hoa rủ nhau “xuống đường”
Kẻ mua cùng người bán
Chưa ai nhìn thấy… xuân
Lang thang qua phố cũ
lại tạt vào quán quen
Bạn bè ngồi sẵn đó
Còn được vài ba tên
Kệ, năm cùng, tháng tận!
Chuyện… vãn chưa tận cùng
Vẫn tràn trề biển mặn
Vẫn ngọt ngào suối sông
Lại trôi về quá khứ
Nhớ tết Quảng Ngãi xưa
Chỉ còn là cổ tích
Thuở vẫn còn ngây ngô
Rồi quay về thực tại
Với ngổn ngang đời thường
Ai lại về nhà nấy
Ngắm nghía mình trong gương
Tay lùa vuông tóc bạc
Nhặt nhạnh từng chút xuân
Cùng “người dưng” đợi Tết
Nhỏ nhẻ hát: “Mười thương”!
SG_270125
28 Chạp G.Thìn
ĐVL
P/s Bạn Khai có việc nên về sớm nhưng vẫn có… hình nghen 😅


CHÚC XUÂN - Đào Tình và THẬT THÀ LỜI CHÚC ĐẦU XUÂN - Thơ Đặng Việt Lợi


CHÚC XUÂN


Xuân về hoa nở muôn nơi
Chúc anh, chúc chị vạn lời thân thương
Bao nhiêu còn đó vấn vương
Quên đi tất cả… yêu thương… tuyệt vời!
Cùng nhau nâng chén rượu mời
Thêm tình thêm nghĩa cho đời thêm vui…
Đào Tình K.7 SPSG

2./ THẬT THÀ LỜI CHÚC ĐẦU XUÂN

Tết không còn là “tết nhất”
Có em, phải chịu về nhì
Ta xuống hàng ba! Đành vậy
Hơn thua cũng chẳng được gì!
Tết đến thì xin chúc tết
Gửi nhau những lời thảo thơm
Tặng nhau ánh nhìn… tinh khiết
Biếu luôn cả nụ cười… giòn
Chúc nơi xa xôi nào đó
Không còn cảnh bắn giết nhau
Hãy trao trái tim từ ái
Thay vì nỗi khổ niềm đau
Chúc các tôn sư hằng kính
Vây quanh - đầy học trò hiền
Sớm tối ung dung tự tại
Luỵ phiền gác bỏ sang bên
Chúc Mẹ - mãi là bóng cả
Tán xoè che chở cháu con
Dẫu gầy khô cùng tuế nguyệt
Vẫn luôn “như nước trong nguồn…(1)
Chúc hết thân bằng quyến thuộc
Đồng môn với cả đồng hương
Không mong gì hơn, chỉ chúc
Một năm an hạnh, cát tường
Riêng với “người dưng khác họ”
Nơi ta vay “gói trọn đời”
Xin chúc mừng em - “chủ nợ”
Suốt năm nhận đủ vốn, lời
Còn ta, can gì kiêng cử
Nghiễm nhiên cũng tự chúc mình
Chúc “cái thằng tôi”… tỉnh thức
Ngắm đời sau mỗi bình minh
Tết đến thế là chúc… hết
Dẫu tết nhất, nhì hay ba
Xin nhận chút tình thơm thảo
Xuân vui, gửi đến mọi nhà
Đấy lời thật thà năm mới
Của người được xếp hạng… ba!
SG_300125
Mùng 2 Giêng ÂT
Đặng Việt Lợi
(1) Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra
P/s Điểm vài hình ảnh xuắt hành vào sáng Mùng 1 tết.








Góc Việt Thi : Thơ XUÂN của Trần Quang Khải (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Việt Thi : 

            Thơ XUÂN của  Trần Quang Khải
                         
                 

      Trần Quang Khải 陳 光 凱 (24/8/1241 - 26/7/1294) tự là Chiêu Minh 昭 明, sinh vào mùa đông năm Tân Sửu (1241), mất ngày 3 tháng 7 năm Giáp Ngọ (26-7-1294), là con trai thứ ba Trần Thái Tông.
      Trần Quang Khải học rộng biết nhiều, chẳng những là một tướng cầm quân giỏi mà còn là một nhà ngoại giao có tài, một nhà thơ với những vần thơ “sâu xa lý thú”. Ông là một trong những tác gia tiêu biểu của văn học thời thịnh Trần. Trong thơ văn ông có thể tìm thấy một tinh thần yêu nước kiên cường, một tấm lòng gắn bó với con người và tạo vật, một khí phách anh hùng tiêu biểu cho dân tộc. Khi ông đi chiến trận, Trần Thánh Tông đã tặng lá cờ với hai câu thơ:

 一 代 功 名 天 下 有,  Nhất đại công danh thiên hạ hữu,
 兩 朝 忠 孝 世 間 無。  Lưỡng triều trung hiếu thế gian vô.
    Có nghĩa :
               Một đời công danh thiên hạ có,
             Hai triều trung hiếu thế gian không !

       (Công danh trọn một đời, thiên hạ còn có người như ông,
       Tấm lòng trung hiếu đối với hai triều vua thì thế gian không ai có.)
            

      Tác phẩm có tập thơ Lạc Đạo 樂 道, nhưng đã mất, hiện chỉ còn lại 11 bài. Sau đây là hai bài thơ xuân của ông.
   
        春 日 有 感  一.           XUÂN NHẬT HỮU CẢM 1.

    雨 白 肥 梅 細 若 絲,     Vũ bạch phì mai tế nhược ty,
    閉 門 兀 兀 坐 書 癡。   Bế môn ngột ngột tọa thư si.
    二 分 春 色 閒 蹉 過,     Nhị phân xuân sắc nhàn sai quá,
    五 十 衰 翁 已 自 知。  Ngũ thập suy ông dĩ tự tri.
    故 國 心 還 飛 鳥 倦,  Cố quốc tâm hoàn phi điểu quyện,
    恩 波 海 濶 縱 鱗 遲。  Ân ba hải khoát túng lân trì.
    生 平 膽 氣 輪 囷 在,     Sinh bình đãm khí luân khuân tại,
    醉 倒 東 風 賦 一 詩。  Túy đảo đông phong phú nhất thi.
             陳 光 凱                         Trần Quang Khải
          
                  

* Nghĩa bài thơ :
                             CẢM XÚC NGÀY XUÂN  1.
     Mưa Xuân trắng xóa phơi phới như tơ làm tươi tốt mấy cành mai, một thư sinh mọt sách đóng cửa ngồi trơ mà nhìn ra ngoài. Hai phần ba xuân sắc đã trôi qua một cách vô ích, Lão già năm mươi già yếu tự biết sức mình. Tấm lòng đối với cố quốc thì như cánh chim bay đà mõi, Còn ơn Vua thì rộng như biển nên chưa kịp vươn vẫy để cố bơi. Cái đãm khí bình sinh vẫn còn sừng sửng đó, nên say khước dưới gió xuân vẫn làm nốt một bài thơ!     

* Diễn Nôm :
                  XUÂN NHẬT HỮU CẢM 1.
   
              Mai đẹp mưa xuân gội trắng ngần,
              Thư sinh trong cửa dạ lần khân.
              Hai phần xuân đã qua hơn nửa,
              Năm chục già đà tự biết thân.
              Cố quốc chút lòng chim cánh mõi,
              Ơn Vua tợ biển cá đuôi sần.
              Bình sinh đởm lượt còn hun đúc,
              Say khướt gió xuân vẫn họa vần ! 
                           Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
 

     春 日 有 感  二.              XUÂN NHẬT HỮU CẢM 2

    月 色 微 微 夜 向 闌,Nguyệt sắc vi vi dạ hướng lan,
    東 風 特 地 起 春 寒。Đông phong đặc địa khởi xuân hàn.
    翻 空 柳 絮 黏 高 閣,Phiên không liễu nhự niêm cao các,
    攪 夢 湘 筠 撲 畫 欄.  Giác mộng tương quân phốc hoạ lan.
    被 物 潤 從 天 外 雨,Bị vật nhuận tòng thiên ngoại vũ,
    驚 心 紅 褪 昔 時 顏.   Kinh tâm hồng thối tích thời nhan,
    袪 愁 賴 有 三 杯 酒,Khử sầu lại hữu tam bôi tửu,
    撫 劍 悠 悠 憶 故 山。Phủ kiếm du du ức cố san.
                  陳 光 啓                       Trần Quang Khải. 
               
                               

Nghĩa bài thơ :
                    CẢM XÚC NGÀY XUÂN  2.    
       Bóng trăng mờ ảo nhạt dần vì trời sắp sáng, gió xuân có ý mang cái lạnh của sáng mùa Xuân đến, những cành liễu bay lộn trên không phất vào gác cao, những cành trúc đập vào lan can làm tỉnh giấc mộng xuân. Muôn vật được tưới gội nhờ mưa từ trời đổ xuống, giật mình vì dung nhan ngày cũ đã phai tàn. Đành chỉ mượn ba chung rượu để tiêu sầu, và chỉ còn biết vuốt ve kiếm báu mà nhớ đến sông núi xưa vằng vặc đã qua rồi!

                 XUÂN NHẬT HỮU CẢM 2             
   
             Ánh trăng mờ chiếu báo đêm tàn,
             Se lạnh hơi Xuân gió sớm sang.
             Phe phẩy liễu cành vương gác tía,
             Phất phơ trúc nhánh vướng lan can.
             Tốt tươi vạn vật nhờ mưa móc,
             Già cỗi một lòng nhớ sắc nhan.
             Đành mượn tiêu sầu ba chén rượu,
             Vuốt thanh kiếm báu nhớ giang san !
                                   Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm.     




Mời Xem :

Truyền thống Tết của Sài Gòn thời xưa

Nhờ các học giả, nhà văn như Trịnh Hoài Đức, Trương Vĩnh Ký và gần hơn nữa là Vương Hồng Sễn hay Sơn Nam, chúng ta biết được những sinh hoạt, tục lệ ngày Tết thời cận đại, thời thế kỷ 19 của Sài Gòn, mà tên thời xưa là Phiên An hay Gia Định.

Lăng Ông Bà Chiểu, Sài Gòn thời xưa. © Phúc Tiến
Tất nhiên phong tục Tết Việt Nam từ bắc vào nam đều là như nhau, do sinh hoạt của người dân thời xưa chủ yếu là nông nghiệp, mà vào thời điểm đầu năm âm lịch là “nông nhàn”, mới xong vụ lúa, mọi người đều nhàn nhã và thời tiết mùa Xuân rất đẹp, cho nên mới có các hoạt động lễ hội. Lễ hội Tết là lễ hội lớn nhất trong năm. Nhưng theo nhà báo/nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, tác giả nhiều quyển sách và bài viết về lịch sử Sài Gòn, Tết Sài Gòn thời xưa có những ý nghĩa riêng:  

Tết của Sài Gòn thì có hai ý nghĩa. Trước tiên là phong tục nhớ ơn tổ tiên, tiền nhân. Trong tháng Chạp (tháng 12 ta), đầu tiên là phải đi tảo mộ, hay còn gọi là đi “chạp mộ”. Theo cụ Trịnh Hoài Đức, phong tục chăm sóc mộ của người thân, của tổ tiên của người Việt khác với người Hoa. Người Hoa thì tháng 3 mới làm lễ “Thanh Minh”, nhưng người Việt thì chăm sóc các mộ phần như là một cách để “rước” tổ tiên về ăn Tết. 

Trước đây, chúng ta đến các nghĩa trang để tảo mộ, dọn dẹp mộ phần của ông bà, tổ tiên, nhưng bây giờ phần lớn là đã được hỏa táng, nên hài cốt để trong các chùa và nhà thờ. Trước Tết, con cháu bao giờ cũng phải đi thăm và làm lễ mời tổ tiên về ăn Tết.

Ý nghĩa thứ hai:  Ngày Tết là ngày mà ai cũng mong có sự may mắn. Ngày xưa các cụ quan niệm Tết là phải đuổi “tà ma”, tức là những điều không may mắn. Theo cụ Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định thành thông chí”, từ đêm 28 cho đến đêm 30, có một phong tục rất hay, đó là những đoàn hát 5 - 10 người, mà người dẫn đầu gọi là “Na nhân” hay “Nậu sắc bùa”, đi đến các nhà dân, mang những bùa đuổi tà ma, niệm thần chú, đánh trống con và hát, cầu chúc cho chủ nhân năm mới được may mắn. Thường thì chủ nhân sẽ đem rượu ra khoản đãi và tặng tiền. Trịnh Hoài Đức gọi phong tục này là “tống cựu nghinh tân”- tiễn cũ, rước mới. 

Phong tục này na ná giống phong tục ở miền bắc, miền trung cổ xưa: Vào đêm 30, trẻ em, nhất là của các nhà nghèo, đi đến các nhà giàu để hát đồng giao, nổi bật là bài “ Xúc xắc xúc xẻ”. Cụ Dương Quảng Hàm trong cuốn "Văn học sử Việt Nam" có ghi lại bài này: “ Xúc xắc xúc xẻ, nhà ai còn thức…..”

Ý nghĩa thứ ba: Đương nhiên Tết là vui chơi. Đất Nam Kỳ, Kiên An-Gia Định-Sài Gòn ngày xưa là đất phong lưu. Người Việt Nam từ miền bắc, miền trung đã nam tiến vào khu vực Nam Bộ, thời Minh Mạng gọi là Nam Kỳ, khai phá đất mới. Miền đất mới này rất tốt tươi, mưa thuận gió hòa, cho nên người dân Sài Gòn, dân miền nam ăn Tết rất phong lưu. 

Theo ghi chép của Trịnh Hoài Đức, nhà nào ở Phiên An thời gian đó cũng may sắm quần áo mới, quét dọn nhà cửa và treo liễn. Liễn là những cuộn giấy dài, hoặc người ta trình bày những liễn đối bằng gỗ và trên tranh, đầu tiên là những lời chúc. 

Theo cụ Trương Vĩnh Ký trong tập sách báo “Phong loại thoái trình”, có những câu chữ mà nhà nào cũng thích viết trên các liễn đối, ví dụ như “Ngũ Phước Lâm Môn”, tức là 5 cái phước đến cửa nhà mình: Phú ( Giàu ), Quý ( Sang ), Thọ ( Sống lâu ), Hương ( Khỏe mạnh ), Ninh ( Bình yên ). Câu này là lấy trong kinh sách của Nho học. Hoặc là câu “ Tam Dương Thai Thái”, có nghĩa làm sao có được một tháng Giêng, đầu Xuân, khí trời tươi tắn, thái hòa. Hoặc những câu chúc như “ Phước - Lộc - Thọ”, gọi là Tam Đa. 

Nói đến các sinh hoạt ngày Tết xưa dĩ nhiên không thể không nói đến việc đi lễ chùa. Dân Sài Gòn cũng không ra ngoài thông lệ đó, đặc biệt Lăng Ông ( Bà Chiểu ), tức là khu đền và mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832), là nơi mà ai cũng phải đến trong những ngày đầu Xuân:

“Tả quân Lê Văn Duyệt, hay còn gọi là Tổng trấn Thành Gia Định Lê Văn Duyệt, là người thay mặt Vua điều hành toàn bộ Nam Kỳ, trong đó có Sài Gòn. Ông nổi tiếng là chính trực, công bằng, thanh liêm, được người dân kính nể, gọi là Đức Thượng Công hay là Quan Thượng. Khi Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất, người dân thờ phượng ông như một vị thánh. 

Lăng Ông Bà Chiểu có kiến trúc rất đẹp, ra đời vào khoảng những năm 1930, nhưng cổng Tam Quan của Lăng thì có vào khoảng đầu thập niên 1950. Tam Quan là kiến trúc hiện đại, nhưng lại làm theo kiểu cổ và có lúc đã trở thành như là biểu trưng của Sài Gòn. Vào buổi tối ngày Tết, đêm 28, 29, 30, hay là mùng Một, mùng Hai, rất đông người đến Lăng Ông. Các vị nguyên thủ quốc gia, thủ tướng, các vị quan chức lớn đều rất kính cẩn làm lễ.

Ngoài lễ thờ cúng đức Thượng Công, thường có phong tục xin xăm. Xăm là những lời tiên đoán năm mới sẽ như thế nào, tùy theo tuổi. Chung quanh Lăng Ông thì có nhiều thầy bói tướng. Bói tướng thì có hai mặt, một mặt là mê tín, nhưng một mặt thì đó cũng là một nét văn hóa. Người thời đó lo âu rất nhiều, nên muốn biết sang năm sẽ như thế nào. Không chỉ dân Sài Gòn đến Lăng Ông, mà người dân từ nhiều tỉnh thành khác cũng đến đây.

Kế đến là những người theo đạo Phật thì dĩ nhiên là sẽ đến các chùa. Bên nhà thờ Công Giáo thì cũng cử hành những thánh lễ vào đêm Giao Thừa. Cuối những năm 1970 trở đi và bây giờ vẫn còn, đó là một số nhà thờ làm thánh lễ vào dịp Tết theo hình thức dân tộc, cũng áo dài khăn đóng và cũng có những lư hương, chiêng trống theo kiểu Việt Nam, tạo ra một sự hài hòa rất đẹp.”

Bánh tét, món ăn không thể thiếu được của dân Sài Gòn những ngày Tết. © Phúc Tiến

Ngoài những ý nghĩa thiêng liêng nói trên, “Tháng Giêng là tháng ăn chơi”, câu này lại càng đúng với đất Nam Kỳ trù phú, với đất Sài Gòn hoa lệ. Người dân Sài Gòn thời xưa ăn chơi ngày Tết như thế nào, nhà nghiên cứu Phúc Tiến cho biết:

“Ngày xưa các cụ chơi Tết là 7 ngày đầu tiên. Người Sài Gòn rất là phong lưu: Ai đến nhà mình, dù không quen biết, đều được mời ăn uống no say. Nhà nhà uống rượu nếp than, ăn bánh tét, rồi cờ bạc. Cụ Trịnh Hoài Đức nhấn mạnh là trong mấy ngày Tết không được đòi nợ!

Về phong tục Tết thì trước mỗi nhà đều dựng một cây tre, trên đó có buộc một ít giấy vàng bạc, một giỏ đựng trầu cau và vôi, gọi là cây nêu. Cây nêu thì ngoài bắc cũng có, nhưng mỗi nơi có thay đổi đôi chút. Cây nêu tượng trưng cho mong muốn mời tổ tiên, Trời Đất, thánh thần, cả những vong linh gọi là cô hồn, những người chưa siêu thoát, tham dự lễ hội 7 ngày Tết đó.

Một tục lệ nữa là đốt pháo. Sau Tết Mậu Thân thì không đốt pháo nữa, nhưng trước đó thì pháo vang rền. Pháo là tiếng để xua đuổi tà ma và đồng thời tạo niềm vui. Tuy nhiên, ở Việt Nam từ những năm 1990 trở đi, nếu tôi nhớ không lầm, thì không còn cho đốt pháo nữa, bởi vì pháo gây tai nạn nhiều quá và gây khói bụi, ô nhiễm không khí khiến người già có thể bị hen suyễn, khó thở.

Ngoài ra, còn có tục lệ chơi đánh đu. Phong tục này chưa được phục hồi. Theo cụ Trịnh Hoài Đức thì có 3 loại đu: Đu tiên, tức là 8 cô gái xinh đẹp cùng đứng trên xích đu nhúng nhảy, đu rút, đu giằng xoay, thường là kéo dài đến rằm tháng Giêng.”

Một phong tục khác ở Việt Nam thời xưa gắn liền với những ngày Tết, đó là lễ tế Trời, tế Thần Nông ở Đàn Xã Tắc. Theo lời nhà nghiên cứu Phúc Tiến, ngay tại Sài Gòn cũng có một Đàn Xã Tắc:

“Vào đêm Giao Thừa, cũng như ngày mùng Một Tết, Vua sẽ làm lễ tế Trời và tế Thần Nông. Nơi diễn ra lễ đặc biệt này gọi là Đàn Xã Tắc. Đàn Xã Tắc là một cái đài vuông, xây bằng gạch, tượng trưng cho Đất, trên một gò đất cao hình tròn, tượng trưng cho Trời. Đến tiết Lập Xuân, có nghĩa là đầu tháng 2 Âm lịch,  Vua và các quan đại thần đến Đàn Xã Tắc để làm lễ cầu cho quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt.

Phong tục này, theo sách sử ghi, có từ thời nhà Đinh, nhà Lê và chỉ diễn ra tại kinh đô Huế. Thế nhưng, tại Sài Gòn - Phiên An - Gia Định, là đất mới, thủ phủ của tỉnh phương Nam, năm 1823, Vua Minh Mạng đã cho lập một Đàn Xã Tắc ở Gia Định. Hiện giờ, theo khảo sát của chúng tôi, căn cứ vào những gì mà cụ Trương Vĩnh Ký viết, Đàn Xã Tắc dường như nằm ở khu vực chung quanh trường Lê Quý Đôn, có nghĩa là ở ngã tư Nguyễn Thị Minh Khai, hồi xưa là Hồng Thập Tự với Nam Kỳ Khởi Nghĩa, hồi xưa là Công Lý.

Cũng có thể gò đất cao nằm bên trong Dinh Độc Lập, trên đó có một ngôi nhà nhỏ kiểu xưa, hình bát giác, chính là khu vực Đàn Xã Tắc. Phong tục này rất tiếc là không còn nữa, nhưng tại Huế những năm gần đây người ta đã khôi phục Đàn Xã Tắc.

Đặc biệt, cũng liên quan đến Tổng trấn Lê Văn Duyệt, chỉ riêng Sài Gòn, đúng ngày rằm tháng Giêng, có một lễ mà bây giờ ta có thể gọi là duyệt binh, tập trận, rất là khí thế. Quan Tổng trấn Lê Văn Duyệt sẽ mặc phẩm phục đại trào từ trong Thành Gia Định, gọi là Thành Bát Quái, đi mở đầu là những phát súng thần công, đi voi, diễu binh đến địa điểm gọi là mô súng, mà các nhà sử học ngày nay xác định đó là khu vực ở Công trường Dân Chủ. Nơi đây ngày xưa có Trại Lê Văn Duyệt, nay là Bộ Tư Lệnh Thành. 

Tại đây sẽ diễn ra một cuộc thao dượt với hàng ngàn binh lính, voi, ngựa, đại pháo. Toàn bộ khu vực từ Công trường Dân Chủ đến khu vực Hòa Hưng, Nghĩa Trang Đô Thành, nay là Công viên Lê Thị Riêng, là một khu vực đất trống, mà người dân gọi là Đồng Tập trận. Hôm đó, sau khi tập trận bộ binh, tượng binh, kỵ binh, sẽ có một cuộc tập trận trên sông. Quan Tổng trấn Lê Văn Duyệt tiếp tục đi, hoặc là tiếp tục đi voi trên đường bộ, hoặc xuống thuyền đi trên Kênh Nhiêu Lộc thông ra Thị Nghè, đến khu vực nay là Bến Bạch Đằng, nơi sẽ diễn ra tập trận trên sông.

Tại sao chỉ Sài Gòn mới có thao diễn quân sự trên sông như vậy? Bởi vì lúc đó ta phải đề phòng quân Xiêm từ hướng Campuchia tấn công qua Nam Kỳ, cũng như là phòng ngừa các đế quốc phương Tây. Cho nên riêng ở Sài Gòn lại có một lễ duyệt binh vào ngày rằm tháng Giêng.”

Thanh Phương 



Xem Thêm :Tết Miệt Vườn - Dạ Ngân

29 thg 1, 2025

5 bài thơ thiền cho ngày đầu năm (mồng 1 Tết)


Hán Thi (197)
Thạch Ốc Thanh Củng (石屋清珙; Shiwu)
Trên vạn tầng cao của núi non,
Nhà ta chẳng có chốn nào hơn.
Đắp ba tượng Phật bằng đất sét,
Thắp một cây đèn buổi sớm hôm.
Trăng giữa đêm ngân cùng khánh lạnh,
Băng trong hồ nấu với trà thơm.
Nếu người nào hỏi Tây Lai Ý,
Biết trả lời sao đến thế nhơn.
*
Kanshi (138) – Ryokan Taigu
(Lương Khoan Đại Ngu, 良寛大愚)
Xuân về tiếng mõ nhịp nhàng vang,
Cùng tiếng chuông ngân giữa xóm làng.
Trong vườn dương liễu vừa xanh lá,
Trên hồ rong tảo đã tràn lan.
Bình bát ngàn nhà thơm gạo trắng,
Xa rồi danh lợi với giàu sang.
Thường hay nhớ nghĩ hồng ân Phật,
Ngày mới thong dong bước giữa đàng.
*
Hán Thi (102)
Hàn Sơn (寒山; Hanshan)
Tiếng chim thánh thót ở trên cành,
Não lòng nằm dưới mái lều tranh.
Rực rỡ anh đào vừa hé cánh,
Lơ thơ dương liễu mới buông mành.
Vầng nhật ngậm trong hàm núi biếc,
Dải mây gột giữa miệng đầm xanh.
Ai người vượt thoát vòng trần tục,
Nam núi Hàn Sơn bước kiện hành?
*
Tọa thiền Hòa tán (座禅和讃 Zazen wansan)
Bạch Ẩn Huệ Hạc (白隱慧鶴, Hakuin Ekaku)
Bầu trời Chính định thật bao la,
Vầng trăng Bát nhã hiện chói loà!
Mười phương, chỗ nào không rọi đến,
Ba cõi, xứ nào chẳng chiếu qua?
Kiếm tìm chi nữa thêm cực khổ,
Niết Bàn bày sẵn trước mắt ta.
Chốn này quả thực là Tịnh Thổ,
Thân này đồng nhất với Phật Đà.
*
Tích Môn - Ikkyu Sojun
(一休宗純, Nhất Hưu Tông Thuần)
Năm xưa khi Phật nhập Niết Bàn
Thiên nhiên trở lại cõi trần gian:
Một thanh kiếm sắc vung trước trán
Tâm thức, thân thể hoá đôi đàng.
Phật tánh vốn không sanh không diệt
Nhưng để đạt được, khó vô vàn –
Như muôn loài hoa tàn rồi nở
Mỗi khi trần thế đón xuân sang.
___________
* Đọc thêm những tác phẩm khác ở đây: https://phaphoan.com/
* Ủng hộ Pháp Hoan: https://phaphoan.ca/contact
Không có mô tả ảnh.