Chữ nghĩa làng văn
Nguyên trước đây có một từ ghép bồ bịch,
chỉ hai nông cụ. Bồ là dụng cụ đựng lúa, có đáy;
còn bịch cũng
là nông cụ đựng lúa nhưng là tấm ví khoanh tròn, không đáy vì
lấy nền nhà làm đáy.
Do đó, ca dao có câu:
Bởi anh chăm việc canh nông
Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài.
(Lê Trung Hoa - Hiện tượng tỉnh lược trong ngôn ngữ)
Ta về ta tắm ao ta
Sảy chân chết đuối có người nhà vớt lên
"Ngày ba bữa vỗ bụng
rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no; đêm năm canh an giấc ngáy kho
kho, đời thái bình cổng thường bỏ ngỏ".
(Chơi chữ là gì? – Triều Nguyễn)
Chẳng cô gái đẹp cũng nàng nết na
Tớng mặt
Đây là khuôn mặt dài, nẩy nở ở gò má, hẹp ở trán, đỉnh
đầu và cằm. Đây là tướng hạ cách. Từ năm 20 tuổi trở đi gặp nhiều trở ngại,
nghèo khó, khắc vợ con. Đàn bà có tướng mặt như trên chủ về hình phu khắc tử,
nhưng lại rất thọ. Sự khắc chồng con và cô độc đó nặng nhẹ tùy theo
thần khí và ngũ quan tốt xấu.
Những người lông bụng chớ chơi bạn cùngCách viết văn
Nhà văn giỏi là người
biết quan sát và kể chuyện, hé lộ những điểm thắt nút,
nhưng chi tiết tinh tế, gợi mở cho những gì sắp xảy ra. Người kể chuyện không nên có giọng điệu giảng giải. Anh ta phải biết tôn
trọng sự thông minh của độc giả. Họ luôn biết lý giải câu chuyện theo cách riêng của mình.
Nói lái xưa và nay
- Mắm nêm ăn với quả cà
Vắng anh Tử
Trực đâu mà biết ngon.
(ăn mắm nêm với cà mà thiếu quả ớt thì không ngon. Ớt ? Thì tử là con, trực
là ngay, con ngay > cay ngon, là ớt chứ gì nữa)
- Bụi riềng trồng ở bờ ao
Chú Mộc Tồn
quấn quít ngày nào cũng xin.
(mộc tồn : cây
còn, con cầy, đã nói ở kỳ trước) (Nói lái mà chơi, nghe lái chơi - Thân Trọng Sơn)
Bình tĩnh tự tin không cay cú
Âm thầm chịu đựng trả thù sau
Một buổi sáng, khi tôi vừa đến thì thấy chị đứng khóc trước cổng,
cùng lúc đó có Bùi Giáng mang bị, đeo đồ lỉnh kỉnh trên người vung gậy đi tới.
Ông dừng lại hỏi thăm, khi biết chị Định vừa bị mất chiếc xe đạp, ông lặng lẽ
ngồi xuống, mở bị lấy gói Basto, lột vỏ bao thuốc làm giấy, mượn tôi cây bút
viết gì đó rồi trao cho chị Định, chị mếu máo cầm tờ giấy đưa lại cho tôi,
trước cảnh tượng như vậy tôi không biết làm gì hơn là đọc cho chị nghe hai câu
thơ của Bùi Giáng vừa làm tặng chị :
Bài thơ gởi tặng chị hai
Người còn thì của lai rai vẫn còn
Sài gòn, Chợ lớn rong chơi.
Đi lên đi xuống đã đời du côn
Tuổi thơ em có buồn nhiều
Hãy xin cứ để bóng chiều bay qua
- Quanh tôi hiu hắt cuộc đời (thơ, NXB Hành
động, 1971)
- Khói chiều (thơ, NXB Trẻ, 1994)
Chân dung Văn học Nghệ thuật & Văn hóa
Ông cũng yêu thích những truyện dài, truyện ngắn của nhà văn Linh Bảo như các cuốn Gió Bấc, Những Đêm Mưa, Tàu Ngựa Cũ. Theo ông “ngòi bút của Linh Bảo thông minh, giễu cợt, với giọng nghịch ngợm tinh quái, nhưng chua chát. Người phụ nữ của Linh Bảo tuy cứng cỏi, chịu đựng của những hoàn cảnh.”
*
Trịnh Y Thư tên thật Phạm Ngọc Minh, sinh năm 1952 tại
HàNộilớn lên ở Sài Gòn. Du học tại Hoa Kỳ thập niên 70 hiện ở California USA
Cựu chủ bút tạp chí Văn Học tại Hoa Kỳ (từ
1990-1994) bài viết trên Văn, Văn Học,
Hợp Lưu, Nhân Văn, Thế Kỷ 21...
Tác phẩm đã in : Chỉ là đồ chơi – Nguời
đàn bà khác - Ðời nhẹ khôn kham (tiểu thuyết
dịch của milan kundera)
Đối thoại về nghệ thuật tiểu thuyết
Nỗi nhớ qua một số tác giả
Không biết những nổi loạn, sống hết mình của Kiệt Tấn có ảnh hưởng gì đến con người tác giả không, vì truyện Em Điên Xõa Tóc chứng tỏ người viết truyện đã từng sống trong bệnh cảnh đó! Nói chung, tính chất tự truyện, hiện thực trong tác phẩm của Kiệt Tấn đã làm mạnh thêm tính lãng mạn và thi vị. Tựu trung chuyện ăn chơi, đam mê, lầm lỡ,... của nhân vật xưng tôi hay Kiệt đã là những tác phẩm khá thơ mộng và thành công để lại nơi người đọc sự quí mến, dĩ nhiên là với người đọc không đạo đức giả! Sống thật vì theo ông, hạnh phúc chỉ là một cảm giác. Cũng nên ghi lại đây quan niệm về truyện ngắn khác người của ông: "Tôi có quan niệm về truyện ngắn hay hoặc dở như sau: tôi tưởng tượng độc giả là người nữ. Khi sáng tác truyện ngắn, tác giả rủ độc giả làm tình. Nếu cả hai đều đã đời, truyện ngắn thành công. Nếu chỉ có một bên đã đời, truyện ngắn thất bại. Nếu không có bên nào đã đời, truyện ngắn thảm bại..."
“sâm: sâm sấp. → không viết: xâm”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
(Hòang Tuấn Công)
Bạn tôi, Trần Đông Phong
Thế rồi, đang lúc tôi lâm bệnh,
tin xấu bay về sáng ngày Noel, Trần Đông Phong đã ra đi theo ngọn gió đầu mùa
đông. Cũng như Mai Thảo, như Cao Đông Khánh và Như Phong đã ra đi những năm nào
vào độ tháng Chạp này. Nhưng trước hết,
tôi xin được theo Đinh Quang Anh Thái của báo Người Việt Cali ghi lại
tiểu sử của Trần Đông Phong.
“… Ông tên thật là Trần Đức Thắng, quê quán tại Quảng Trị, sinh năm 1937 tại
Thanh Hoá, học tiểu học tại Quảng Trị và Pellerin Huế. Trần Đông Phong là giáo
sư trường Trung Học Phan Thanh Giản Cần Thơ từ năm 1958 cho đến tháng 6-1963,
trước khi bị động viên vào khoá 16 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.
Ra trường Thủ Đức tháng 6-1964, Trần Đông Phong được đưa về làm Giảng Viên tại
Trường Sinh Ngữ Quân Đội và sau đó biệt phái về làm việc cho tổ chức “Liên Minh
Á Châu Chống Cộng” do bác sĩ Phan Huy Quát làm Chủ Tịch. Trong thời gian này
(1969-1975), Trần Đông Phong là Chủ bút Nguyệt San Anh Ngữ “Free Front”, cũng
từ năm 1971, ông là chuyên viên về Liên Lạc Quốc Tế của Liên Hiệp Nghị Sĩ Á
Châu (Asian Parliamentarian's Union). Trần Đông Phong đã cộng tác với các báo
Sống, (trong nước trước 1975) và Người Việt, Thời Luận, Nguyệt San Thế Kỷ 21,
Văn Hoá (hải ngoại).
(Nguyễn Xuân Thiệp)
Từ nhà hàng ăn chúng tôi đến thăm nhà văn lão thành Tô Hoài, tác giả của tập
truyện Con dế mèn phiêu lưu ký
tôi đã mê say đọc từ hồi còn nhỏ. Chiều đến anh chở tôi về nhà anh ở vùng ngoại
thành Hà Nội cuối cùng dừng lại trước căn nhà có bờ tường rêu bao quanh và có
cổng gỗ kiến trúc giống như cổng một mái chùa hay ngôi đình làng. Nguyễn
Huy Thiệp đẩy hai cái cánh cửa gỗ nặng nề dắt xe qua cổng. Bên trong mở ra một
thế giới khác hẳn bên ngoài. Một khu tuy nằm trong lòng Hà Nội nhưng biệt lập
rất đồng quê. Qua bóng rợp của một khu vườn cây rộng, toàn cây ăn trái, nào
nhãn, nào ổi, nào khế... cây nào cây nấy nặng trĩu những quả, một con đường lát
gạch dẫn tôi tới căn nhà hai từng nằm ẩn sau vườn, nơi mà “Không có vua” “Tướng
về hưu”... cùng những tác phẩm khác của anh được thai nghén và sáng tác.
Tối đó anh Thiệp mời tôi dùng cơm tại nhà anh. Tôi nhớ mãi bữa cơm rau ấy vì đã
từ lâu lắm rồi tôi không được ăn một bữa cơm thanh đạm đầy mùi vị quê hương. Về
khuya anh đưa tôi ra đầu ngõ đón xe về khách sạn. Anh nói trước khi chia tay: Văn
chương nó bạc lắm anh ạ. Phần thưởng quí nhất có lẽ là qua nó chúng ta có được
những người bạn mới ở khắp bốn phương.
“Cha tôi chỉ viết về quê mình. Những
nhân vật trong truyện dài, truyện ngắn của ông đều lấy nguyên mẫu ở quê nhà rồi
gọi chệch là làng Cầm. Những người ở làng Cổ Am sống xa quê hương đọc truyện
ông đều có thể nhận ra ngay nhân vật mà ông miêu tả, dù đã đổi tên, là những ai
ở trong làng. Ông sống hàng ngày với nhân vật của mình. Và không phải chỉ người
mà cảnh vật xung quanh cũng trở thành nguồn vui sống của ông” – (trích
bài viết Cha tôi - nhà văn Trần Tiêu của Gs Trần Bảng).
Trần Tiêu sinh tại làng Úm Mạt (tức Cổ Am), huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương.
Làng này nổi tiếng trong lịch sử bắt đầu từ triều Trần, khi đất Úm Mạt được
phong cho một công chúa. Đây là vùng rừng ngập mặn, đồng chua nên ruộng lúa
không được phát triển. Sau hơn 700 năm và hơn 20 thế hệ, Cổ Am vẫn lẫy lừng bậc
nhất trong nước về truyền thống thượng võ và chống ngoại xâm. Mối quan hệ tinh
tế và sâu đậm giữa địa linh nhân kiệt và hình sông thế núi cùng cây cỏ chim
muông tạo nên một môi trường sinh thái tròn trịa. Bản thân gia thế của Trần Tiêu
(cả bên vợ) cũng ở trong một truyền thống kết hợp được cả Nho học, Phật học và
Tây học. Nên khi viết Con trâu và các tác phẩm khác, ông đã
thể hiện được các nét đặc trưng của các truyền thống này.
Đầu thập niên 1930 đã mở màn cho khuynh
hướng tả thực và xã hội trong văn học, với các ngòi bút khá tiêu biểu như Ngô
Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Mạnh Phú Tư và Trân Tiêu. Con
trâu được “khai sinh” ở làng Cổ Am và kể về chuyện của làng Cổ Am,
nhưng có tính cách biểu tượng chung. Đây cũng là tiểu thuyết đầu tiên viết về con trâu.
(Hòang Tuấn Công)
- Trẻ con nào mà không vẽ? Mình chẳng phải ngoại lệ. Sau
ni, nhiều lúc trơ trọi một mình, càng hì hục vẽ. Do không qua đào tạo, nên lắm
phen mình rất lúng túng khi xử lý chất liệu. Như thuở mới chơi bột màu, mình
không biết hoà trộn với keo dính nên vẽ xong một thời gian ngắn, bức tranh bị
bong lở tả tơi!
Còn thơ, mình bắt đầu mần từ năm 1959, lúc học lớp đệ
tam, bữa ni là lớp 10, trường Quốc Học. Với báo chí thì từ thời học sinh, kéo
dài sang thời sinh viên, mình đã viết bài đăng tập san Lành Mạnh.
Chẳng hạn loạt bài điểm sách, như điểm các tập thơ Hoa đăng của
Vũ Hoàng Chương, Hoa cô độc của Ngô Kha, v.v.
- Tại Huế, mình với Nguyễn Thiết, Lê Minh Trường, Lê Văn
Sắc, v.v., in và rải truyền đơn chống đế quốc Mỹ xâm lược. Bị lộ, cảnh sát lùng
sục, rứa thì mình phải lên xanh vào tháng 6-1965. Ở trên rừng, quá nhớ Huế,
nhưng mình chẳng được về Huế, ngay cả dịp Tết Mậu Thân 1968. Chẳng may mình
bị thương, lại thêm loét dạ dày, phải ra Bắc điều trị năm 1970. Hồi ký Tôi
bị bắt do mình viết năm 1993 đã kể lại thời gian mình bị rơi vào hoàn
cảnh quá đỗi éo le tại miền Bắc từ năm 1972 đến mãi sau này.
* Kể tí chút về bà xã Nguyễn Thị Hay và các con được chăng?
- Hay rất… hay. Nàng người làng Dương Nỗ, xã Phú Dương,
huyện Phú Vang. Cha nàng lại là trung tá chế độ cũ, từng làm quận trưởng Phú
Vang. Tháng 1-1976, hai đứa cưới nhau. Lúc đó, Hay học lớp Y tế xã ở trường
Trung học Y tế Bình Trị Thiên. Năm 1977, đẻ con gái đầu lòng, tên thân mật là
Bồ Câu, giấy tờ thì Nguyễn Cát Hiên. Đầu năm 1980 thì nàng nghỉ làm y tế, ra
Vinh (Nghệ An) buôn bán nào cà phê bột, nào phân đạm, nào bút chì, nhưng lỗ
nặng, bèn về Huế bán lẻ thuốc lá và bánh kẹo, rồi buôn bán trái cây, rồi gánh
thuê nước đá tại chợ Đông Ba, rồi nấu bánh canh bán nhiều nơi nhằm mưu sinh qua
ngày.
(Phanxipăng)
Vì sao tiểu thuyết quốc ngữ miền Nam Bộ chỉ bắt đầu với Hà Hương phong nguyệt?
Ý kiến của Bằng Giang cho rằng tiểu thuyết chỉ bắt đầu
với Hà Hương phong nguyệt, trước hết đó là ở dung lượng của tác phẩm. Ba tác
phẩm của miền Nam được xuất bản trước đó là Thầy
Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản chỉ dài 32 trang, Hoàng Tố Anh hàm oan (1910) của
Trần Chánh Chiếu được 54 trang, Phan Yên ngoại sử - Tiết phụ gian truân (1910) của Trương
Duy Toản cũng chỉ 49 trang. Tất cả là truyện ngắn, không phải tiểu
thuyết nên không còn gây tranh cải
Hà Hương phong nguyệt so
với ba tác phẩm trên có số trang dày dặn hơn nhiều (tập 6 đã dài đến 284
trang), in trên báo Nông cổ mín đàm kéo dài đến 4 năm vẫn chưa
kết thúc (từ 1912 đến 1915), điều rất khó hình dung trong giai đoạn này. Tác
phẩm gồm có 2 phần gần như độc lập. Phần đầu gần bốn tập, chủ yếu nói về những
cuộc phiêu lưu tình ái của nàng Hà Hương xinh đẹp đa tình, trong đó quan hệ
giữa Hà Hương và Nghĩa Hữu là quan hệ chủ yếu. Phần hai chủ yếu kể về
cuộc đời của Ái Nhơn, con trai của Hà Hương và Ái Nghĩa, vì thế có trường
hợp đã hiểu nhầm rằng phần hai là văn bản của một truyện khác[8].
(Chuyên san Tạp chí Nghiên
cứu văn học – Võ Văn Nhơn)
Một
phần tuổi thơ...
Cá
lia thia thường sống ở vùng đất có cây năng và nước thì không sâu lắm, chỉ qua
khỏi mắt cá chân một chút. Đồ nghề là một hủ đựng chao bằng thuỷ tinh loại tròn
dung tích khoảng từ 1 lít trở xuống và một cái rổ đan bằng tre, thời đó hình
như chưa có hoặc hiếm có rổ bằng nhựa như bây giờ.
Nếu bắt được con nào mà màu xanh dương lặt lè nghĩa là xanh lè, xanh lét thì tụi tôi gọi là lia thia. Còn nếu con nào hai màu xanh đỏ lộn xộn thì gọi là bãi trầu. Bãi Trầu đá dở ưa bỏ chạy nên đám con nít tụi tôi không khoái lắm.
Thì là khi, là lúc. “Lạc đề” là “thi
hỏng”. Toàn câu có nghĩa ”cười như thư sinh khi
hỏng thi”. Nghĩa là cười không…vui.
Chữ nghĩa làng văn
Hỏi, như một lối chấm câu, để tiếp: "Uống mãi vẫn chả hết đêm... Thì bày chén bát soong nồi ra, ta nấu gói mì, ta luộc quả trứng. Thế là vừa uống vừa ăn vừa xem TV. Hừm... thích lắm" Một lần,
thích. Hai lần, thích. Ba bốn năm sáu lần, có thể còn thích. Nhưng như thế, đã
bao nhiêu năm (mỗi năm ba trăm sáu mươi lăm ngày) Chúng ta hãy tưởng tượng đi. Một mình,
với đêm.
(Khánh
Trường)
Gặp gỡ người viết trẻ “ngụ cư” ở hải ngọai
Và nó đã được bảo
tồn thế nào cho thế hệ chuyển tiếp. Tôi nói bảo tồn, vì văn học cùng với giáo
dục cùng với tập quán sinh sống cùng với tục lệ xã hội là những thành tố của
văn hóa dân tộc, văn hóa một miền đất một nhóm con người, không bảo tồn để cho
nó mất đi thì kể như lịch sử bị đục thủng bị đứt đoạn, quá khứ bị xóa nhòa, ai
biết ai là ai, chúng ta liên hệ với nhau ra sao, làm sao để tôi thấy được
người?
Thấy người
Thấy người, chẳng
phải tôi không thấy người. Còn người còn chữ viết, chả phải không thể thấy. Chỉ
là, tôi phải thấy nền văn học cũ qua hoài niệm của những người đi trước, của
thế hệ đàn anh hơn tôi một giáp, mươi mười lăm tuổi. Tôi chỉ thấy Mai Thảo,
Sáng Tạo, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, thầy triết Nguyên Sa, thầy triết
Nguyễn Xuân Hoàng…
Cả một rừng chữ với
người đâu phải chỉ có bấy nhiêu tên? Bậc đàn anh tôi đã đi qua rất nhiều, đã
thu nhận biết bao nhiêu, sao chỉ lập lại mãi hoài mấy tên tuổi đó, và cũng chả
ai nói được điều gì mới, có đủ ý nghĩa về một tác giả, ngoài những tiểu sử,
những vụn vặt bên lề, những hào quang đã tỏa những vương miện đã được trao. Tôi
khát khao biết tại sao văn Mai Thảo hay, tại sao người ta chỉ biết có Thanh Tâm
Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, tại sao các thầy triết Nguyên Sa, Nguyễn Xuân Hoàng
mới đáng nhắc. Không phải thầy Nguyễn Văn Trung mới thực đã góp nhiều công mang
khái niệm triết học đến cho sinh viên thời ấy?
Tôi đi tìm tôi tìm
người trong văn học cũ, lòng ngao ngán ê chề, vì tôi thì còn nhỏ, còn ngu, và
người thì dường mang nhiều quên lãng, quên quá khứ, quên nhau? Tôi hậm hực,
người ta càng tung hô, tôi càng không đọc Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền. Cũng còn
may tôi biết mê Võ Phiến, văn Võ Phiến không cần sự tung hô hay giới thiệu,
ngày ngày chờ Văn Học Tổng Quan in ra được cuốn nào thì rước về cuốn đó…Cái trò
trẻ con ấy tôi làm với tất cả thành kính, vì chứa trong đó là dĩ vãng của tôi,
của biết bao người. Nhưng tôi vẫn không thấy người.
(Văn học miền Nam,
điều sót lại – Lưu Na)
Ở Hà Nội có trường viết văn Nguyễn Du, trong đó có hai ban: ban sáng tác, ban
lý luận phê bình! Ban phê bình cho ra hàng ngàn nhà phê bình (gớm làm sao
mà nhiều thế). Nhà phê bình dĩ nhiên là không biết sáng tác, thường không nêu
ra thành tich đã phê bình bao nhiêu cuốn, bao nhiêu người, mà thường chỉ xưng
là tiến sĩ lý
luận, giáo sư lý luận, giáo sư đầu ngành về lý luận (!)
Hầu
hết các nhà phê bình nào đã dám phê ngay tác phẩn mới ra lò đâu! Họ thường phải
nghe ngóng xem trên có ý kiến có chỉ đạo gì không. Khi dư luận
đã xôn xao rồi thì họ vội vàng phê bình ngay kẻo mất phân (!) Khi Nguyễn
Huy Thiệp đã nổi tiếng rồi, họ bèn nắm lấy cái đuôi con chuột của Nguyễn Huy Thiệp:
“Có con chuột to bằng bắp chuối chạy ra sân… cười hềnh hệch “ họ bèn khen là
tuyệt cú mèo (!) Cái đó thì ông Thiệp cung ngón tay út búng ra cả đống. Cái đó
chỉ là tiểu xảo, đâu phài Coeur de Thiep.
Ông Hoàng Ngọc Hiến khá nổi tiếng, hình như không phài nhà phê bình chuyên
nghiệp. Khi nói về Nguyễn Huy Thiệp, ông viết nhiều câu như là khen và cuối
cùng kết rằng: “Tôi không chúc bạn thành công”. Bà Đặng Anh Đào một người viết
bình thường, không nổi tiếng, đã rất thông cảm khi ông Thiệp bị nhiều búa rìu.
Bà là người không có vai vế nên bà viết như là không khen, nhưng đọc kỷ thì
thấy bà khen. Trái lại, ông Hoàng Hgọc Hiến dùng từ ngữ lớn lao, như là khen, nhưng đọc kỹ thì thấy là
không khen! Ấy! Đại khái những nhà phê bình không chuyên nghiệp
thường e dè, kín đáo.
Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có.
Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thất vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca 7. Kết thúc Sơn ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!
Ngoa dụ vừa mang chức năng nhận thức vừa mang chức năng biểu cảm. Nó được dung trong nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau, từ khẩu ngữ tự nhiên, ngôn ngữ chính luận cho đến ngôn ngữ nghệ thuật.
Ngoa dụ có
thể dùng trong châm biếm. Ở đây, cường độ qui mô của cái xấu lên thì mâu thuẫn
sẽ bộc lộ ra rõ nét hơn. Ví dụ:
Con
rận bằng con ba ba
Đêm
nằm nó ngáy cả nhà thất kinh
Ngoa dụ cũng có thể được dùng trong văn thơ trữ tình. Qui mô của hiện tượng được phóng đại lên, tuy nó quá sự thực nhưng được xây dựng trên cơ sở của tình cảm chân thật. Ví dụ:
Chim
khôn thì khôn cả lông
Khôn
cả cái lồng người xách cũng khôn.
)
Có về Yên Tử mới đành lòng tu.
Vua Trần Nhân Tông
trong giai đoạn đầu tiên trên bước tu hành đã nương náu tại của nầy trong một
thời gian ngắn. Vào trong
nữa là suối Giải Oan, có ngôi chùa Giải Oan Đây là đường đi đẹp nhất trong vùng
nầy. Hai bênđường có trồng nhiều cây thanh tùng, thủy tùng và xích tùng.
Nhìn tổng quát thì
chùa ở lưng chừng núi. Cửa chính điện được xây theo kiểu hình chữ nhật trong
thế cuốn lại. Gạch đều được chạm trỗ những thể hình đầu rồng, đuôi phượng, bố
cục khá cân đối. Mỗi tầng
có mái lợp cong uốn vồng ra phía trước, đưa tiền đình vươn rộng ra. Đỉnh tháp
là chỏm nhọn trên đó có khắc hình những chim trĩ xoè cánh, chim phượng quay
đầu.
Ngày trước, còn xây cột đá ở bên cạnh, sau đó hàng trăm người thợ đã dựng lên; rồi dùng
dây đồng để ràng lấy đỉnh tháp. Chỏm
tháp cũng được trang điểm những hoa văn nhỏ cực kỳ tinh vi làm bằng đồng. Những di tích nổi tiếng nầy, trải qua
nhiều thương hải tang điền, thì nay đã không còn lại là bao nhiêu nữa.
(Kiêm Thêm)
Đặc biệt phố Lý Thường Kiệt và phố Đinh Tiên Hoàng, có
hàng cây cơm nguội.
Cái tên xấu xí, nhưng nó có vẻ riêng, không cây nào sánh
được. Nó còn có tên nữa là sếu. Hình như
chỉ Hà Nội mới có nhiều cây này. Bóng mát lăn tăn, mùa hè xanh ngát. Mùa đông
rụng hết lá, cành trơ ra từ to đến nhỏ trong sương mờ, trong mây bạc nhìn cành
khẳng khiu mà tưởng ta đang đi trong tranh thuỷ mặc.
(Vô danh thị)
Xe thổ mộ tại Sài Gòn xưa
Không biết ai đã chế ra chiếc xe ngựa này, nó xuất hiện trong thành phố Sài Gòn và những vùng quê lân cận từ thậpniên 40.
Xe ngựa còn gọi là xe thổ mộ, dùng để chở người đi lại trong vùng hay vận chuyển hàng rau cải từ những vùng quê lên Sài Gòn. Mỗi khi có việc đi lại trong vùng, cưới xin, người ta đều chọn phương tiện xe ngựa vì tính tiện lợi của nó. Thời điểm lúc bấy giờ, xe ngựa người ta có thể lên xuống bất kỳ chỗ nào.
Tả cảnh nghèo khổ
của người dân.
Đây là câu đố về cây măng và
cây tre. Cây măng non (con) đang được bọc trong những chiếc mo nang
(giống như đóng
khố), cây tre già (bố) mo nang đã bong ra và rơi đi (giống như cởi truồng).
Có lẽ GS cho rằng vì nghèo khổ nên cha phải nhường khố cho con mặc chăng? Nhưng
trong thực tế không hề có chuyện này. Trái lại, vì con còn nhỏ nên cởi truồng,
bố (và ai cũng vậy) là người lớn phải đóng khố, dù nghèo khổ đến đâu.
Cua cáy phiếm lược
Bắt cua bỏ rọ, cua
nhỏ, ta gọi là cua đồng. Nhỏ hơn cua đồng có con cua dẹp,
con rạm, con cáy, con còng, đam (đồng), cà ra, chù ụ, cù kỳ, và còn nhiều nữa như
sau này…
Khốn
khổ một nhẽ người tầm khảo mỏng chữ lại không chịu hiểu con đam, con cà ra, chù ụ, con cù
kỳ…kỳ cục là giống giuộc gì. Nhồi chữ như nhồi rơm nhồi rạ thì hậu
bối, hậu duệ của cua đồng là con cáy, con còng nhỏ nhít đều bắt đầu bằng chữ…“c”.
nên thành…cua dẹp
chăng?
Trước lúc đưa đám, bà Lý đã cẩn thận giao phó cho người ở nhà trông nom xôi thịt, sửa soạn cơm rượu đãi làng. Vậy mà lúc về vẫn thấy mất mát, suy suyển. Đại khái năm miếng thịt bỏ vào luộc thì lúc vớt ra còn bốn, hay ba. Nhiều mâm xôi bị khoét giữa hay vẹt cạnh. Một thúng gạo mang ra ao vo thì lúc về còn nửa. Những người làm giúp được dịp ăn cắp. Người coi có biết cũng phải ngơ, sợ mất lòng, họ bỏ về. Trong khi có việc, họ đến cho là quý.
Chẳng mấy lúc làng đã
họp đông. Trong nhà, ngoài sân đông chật, từ các bô lão sáu bảy mươi, cho tới
lũ trẻ lên sáu, lên bảy. Đứa nhỏ quá thì đã có người nhà, hoặc anh nhớn bế đi.
Họ khỏa chân ở cầu ao trước cửa rồi vào nhà ngồi đợi. Mấy hồi lệnh inh ỏi giục
người đi chậm. Trong nhà không đủ chỗ, phải giải chiếu ra hè cho lũ trẻ; không
đủ chiếu, chúng ngồi ngay xuống đất.
Tác phẩm: Vỡ lòng
(tiểu thuyết) NXB Đời Nay, Hà Nội 1940, Nhà bên kia (tập truyện ngắn) NXB Công
Lực, Hà Nội, 1943.
Chữ “lăm” là rắp, toan, tính toán, suy nghĩ. Con chó trước
khi nằm xuống bao giờ cũng đi vòng vòng hai ba vòng (khoanh). Người thì phải
suy nghĩ hai, ba lần nói. Ý nói việc gì cũng phải cẩn trọng.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa lên tiếng về bài của Nguyễn Vỹ
Aux profondeus de la Montagne
Ecartant et foulant les feuilles des érables
Le cerf brame
Et à l’entendre ainsi
Ah! que l’ automne m’est
lourdement triste!
(Ở những nơi sâu thẳm của núi
Làm tung toé và dẫm lên những chiếc lá thích
Con hươu đực thé lên (rền rĩ, kêu trong mùa
giao phối)
Và nghe thấy điều đó như thế
Chao ôi, mùa thu với tôi buồn nặng trĩu).
(Trần Đăng Khoa)
Tiểu
sử : Trần Đăng Khoa sinh ngày 28.4.1958 tại Nam Sách, Hải Dương – Hiện đang ở Hà Nội.
Tác phẩm: Chân dung và đối
thoại (ký: Bình luận văn chương) - Đảo chìm (truyện dài) - Thơ: Từ góc sân nhà
em - Biển và em - Góc sân và khoảng trời – Bên cửa sổ máy bay
60 năm
nhìn lại cuộc di cư 1954 - Vĩnh
biệt Hải Phòng
40 Năm hải ngoại - Một nén hương -
Cho những nhà văn
nhà thơ đã khuất núi
(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn
Tổng hợp từ nhiều
nguồn)
Nguyễn Mộng Giác
(1940-2012)
Ông sinh ngày
Tháng 11 năm 1982, ông đến Hoa Kỳ, định cư tại Nam California, cộng tác với các
báo: Người Việt, Văn, Văn Học Nghệ Thuật.
Từ năm 1986, ông làm Chủ bút tạp chí Văn Học ở
California, Hoa Kỳ. Đến tháng 8 năm 2004, ông phải ngưng công việc làm báo vì
phát hiện bị ung thư gan.
Ông đã qua đời ngày 2 tháng 7 năm 2012 tại tư
gia ở thành phố Westminster (Orange County, California, Hoa Kỳ), thọ 72 tuổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét