CHỮ NHO... DỄ HỌC (Bài 32)
Các bộ 11 nét
Như thường lệ, trước khi bắt đầu bài viết mới, ta giải đoán câu đố của bài viết trước:
Hữu thủ, hoài bão lý. 有手懷抱裡,
Hữu cước, bào thiên lý. 有腳跑千里。
Hữu thủy, thành bào ảnh, 有水成泡影,
Hữu hỏa, hưởng liên thiên. 有火響連天。
Có nghĩa :
Có tay, trong vòng tay,
Có chân, co giò chạy.
Có nước, tan thành bọt,
Có lửa, nổ vang trời !
Giải Đáp :
Hoài Bão 懷抱 là cái mà mình "Ôm Ấp" ở trong lòng, Chữ BÃO 抱 là ÔM, bỏ bộ THỦ 扌đi còn lại chữ BAO 包.
Hữu Cước 有腳 là Có Chân là có bộ TÚC 足 bên trái. Chữ BÀO 跑 là Chạy, bỏ đi bộ TÚC 足 bên trái cũng còn lại chữ BAO 包.
Chữ BÀO 泡 là bọt nước, nếu không có 3 chấm thủy 氵bên trái thi cũng còn lại chữ BAO 包.
Chữ PHÁO 炮 là Pháo nổ, nếu không có bộ HỎA 火 là Lửa bên trái thì cũng còn lại chữ BAO 包.
4 câu trên xoay quanh chữ BAO 包 :
* BAO 包 thêm THỦ 扌 thành BÃO 抱 là Ôm.
* BAO 包 thêm TÚC 足 thành BÀO 跑 là Chạy.
* BAO 包 thêm 3 chấm THỦY 氵thành BÀO 泡 là Bọt Nước.
* BAO 包 thêm HỎA 火 thành PHÁO 炮 là Pháo Nổ.
BAO 包 là chữ Tượng Hình, là Gói lại, Bọc lại, Vây quanh, như:
BAO TRANG 包装 : là Đóng Gói, BAO VI 包圍: Ta nói là Bao Vây.
BAO 包 là cái Gói, Cái Ví, Cái Bóp, như:
TIỀN BAO 錢包 là Cái Ví, cái bóp đựng tiền; THƯ BAO 書包 là cái Cặp Da, cái
Cặp đựng sách học, BỐI BAO 背包: là Cái Ba-Lô, Cái Bị đeo ở sau lưng.
BAO 包 còn có nghĩa là " Mão hết " như : BAO BIỆN 包辦 là Lãnh làm hết tất
cả công việc gì đó. Ta nói là Bao Thầu hết. BAO TIÊU 包銷 : là chịu trách
nhiệm tiêu thụ hết hàng hóa, hoặc tìm cách bán hết hàng hoá ra ngoài
thị trường.
BAO 包 là Chiụ đựng, chứa hết những điều bực bội không vui, nên có nghĩa là Tha Thứ hết,
như BAO DUNG 包容, BAO HÀM 包涵 : Hàm là HẢI HÀM 海涵 : Chỉ lòng dạ rộng rãi
mênh mông như biển cả, như Hoạn Thư sau khi nhận tội còn kêu nài là "Chồng chung ai dễ đã chìu cho ai?" và đã rất thẳng thắn rằng:
Trót đà gây việc chông gai,
Còn nhờ LƯỢNG BỂ thương bài nào chăng?!
BAO LA VẠN TƯỢNG 包羅萬象: là Bao gồm tất cả mọi hiện tượng, thành ngữ nầy
còn được nói là BAO LA VẠN HỮU 包羅萬有 Cái gì cũng có hết, bao gồm tất cả!
BAO 包 là một trong Bách Gia Tính: họ BAO.
Người họ Bao nổi tiếng mà ai cũng biết đến là BAO CHUẪN 包拯 (999—1062),
còn được gọi là Bao Công. Ông là người đất Hợp Phì, thuộc Lư Châu, thời
Bắc Tống. Ông đậu Tiến Sĩ năm Thiên Thánh đời Tống Nhân Tông, từng giữ
các chức vụ Giám Sát Ngự Sử, Thiên Chương Các Thị Chế, Long Đồ các trực
Học Sĩ, làm quan đến chức Khu Mật Phó Sứ. Ông rất thanh liêm chính trực,
chấp pháp nghiêm minh, chí công vô tư, được các sử quan đánh giá cao,
và dân gian truyền tụng là ông quan thanh liêm chính trực nhất đương
thời, được mọi người xưng tụng là "Bao Thanh Thiên 包青天" (là ông quan họ
Bao như trời xanh ở trên cao soi xét hết các oan tình của dân chúng).
Bao Chuẫn, Bao Thanh Thiên qua điện ảnh
1. BỘ HUỲNH 黄 : Còn đọc là Hoàng.
HUỲNH 黄 : là Màu Vàng. HUỲNH 黃 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Giáp Cốt Văn Kim Văn Đại Triện Tiểu Triện Nét bút
甲骨文 | 金文 | 金文大篆 | 小篆 |
繁体楷書
|
|
| |
|
|
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn cho đến Kim Văn Đại Triện đều là hình tượng của con Cào
Cào Châu Chấu, đầu có cái Xúc biện hàm phía trước, đuôi có 2 nhánh chẻ ở
phía sau, nên Nghĩa gốc của chữ HOÀNG 黃 là con HOÀNG TRÙNG 蝗虫 tục gọi
là Châu Chấu. Sau mới dùng để chỉ màu VÀNG của Hoa Hướng Dương (Hoa Qùy)
và màu vàng của Kim loại VÀNG, ta gọi là HOÀNG KIM 黃金: là Vàng Ròng!
Hồi xưa học chữ Nho, sau quyển TAM TỰ KINH 三字經 mỗi câu 3 chữ, là quyển
THIÊN TỰ VĂN 千字文 mỗi câu 4 chữ. Hai câu mở đầu của THIÊN TỰ VĂN là:
Thiên địa huyền hoàng, 天地玄黃,
Vũ trụ hồng hoang. 宇宙洪荒。
Có nghĩa là :
Trời thì màu đen, đất thì màu vàng.
Bầu trời vũ trụ rộng lớn mà hoang vu.
HOÀNG HÔN 黃昏 : là Lúc trời đã về chiều, mặt trời vừa chen lặn, bầu trời ngã màu vàng chuẩn bị sụp tối.
HOÀNG
HÀ 黃河 : Con sông lớn thứ hai của Trung Hoa sau Trường Giang, dài 5464
km, phát nguyên từ Cao nguyên Thanh Tạng, qua Cao nguyên Hoàng Thổ ( đất
đỏ ), vòng lên cao nguyên Nội Mông rồi đổ xuống đồng bằng Hoa Bắc, vòng
vèo qua 9 tỉnh và cuối cùng đổ ra Bột Hải ở gần thành phố Đông Dinh
thuộc tỉnh Sơn Đông. Hoàng Hà với thế nước cuồn cuộn như từ trên trời đổ
xuống. Trong bài XUẤT TÁI Vương Chi Hoán đã mở đầu bằng câu :
黃河遠上白雲間, Hoàng Hà viễn thượng bạch vân gian,
Có nghĩa :
Hoàng Hà xa vút trong mây trắng. Ý nói ...
Hoàng Hà như từ trong mây trắng trên trời đổ xuống vậy!
Cho thấy cái thế nước của Hoàng Hà hùng vĩ biết là bao. Trong bài Tương Tiến Tửu của Lý Bạch cũng mở đầu bằng câu:
君不見黃河之水天上來奔流到海不復回 ?!
Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy, thiên thượng lai bôn lưu
đáo hải bất phục hồi?!
Có nghĩa :
Bạn không thấy sao? Nước sông Hoàng Hà như từ trên trời đổ xuống, chảy cuồn cuồn ra biển rồi không bao giờ trở lại nữa?!
Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy ...
HUỲNH ĐẾ 黃帝
: Là Ông Vua đứng đầu trong Ngũ Đế của thần thoại Trung Hoa. Huỳnh Đế
vốn họ Công Tôn, vì ở Hiên Viên chi khâu, nên lấy hiệu là HIÊN VIÊN 軒轅,
lại trường kỳ sống bên dòng Cơ Thủy, nên đổi họ CƠ 姬,
tên nước là Hữu Hùng, nên lại xưng là HỮU HÙNG THỊ 有熊氏. Các đời vua sau
của Trung Hoa đều có lập Tôn Miếu để tôn thờ Huỳnh Đế như là một thiên
tử chính thống và được tôn xưng như là Ông Thuỷ Tổ của dân tộc Trung
Hoa. Huỳnh Đế của Trung Hoa giống như là Hùng Vương của Việt Nam vậy!
HOÀNG HOA 黄花
: là Hoa Màu Vàng. Thường dùng để chỉ hoa Cúc, nên CÚC TỬU 菊酒 còn gọi
là HOÀNG HOA TỬU 黃花酒, một trong 4 món ăn chơi bốn mùa của các cụ ngày
xưa:
Xuân du phương thảo địa, 春遊芳草地,
Hạ thưởng lục hà trì. 夏賞綠荷池。
Thu ẩm HOÀNG HOA TỬU, 秋飲黃花酒,
Đông ngâm bạch tuyết thi. 冬吟白雪詩。
Có nghĩa :
Xuân du trên thảm cỏ non,
Hè thì thưởng ngoạn sen tròn trên ao.
Thu nhâm nhi rượu cúc đào,
Đông ngâm thơ tuyết thú nào hơn ta ?!
HOÀNG HOA 黄花 : còn chỉ hoa KIM CHÂM 金針 có màu vàng, nấu canh ăn được ,
là hoa của loại cỏ Huyên 萱草, tượng trưng cho người mẹ, nên gọi mẹ là
HUYÊN ĐƯỜNG 萱堂.
HOÀNG HOA KHUÊ NỮ 黃花閨女 : Chỉ các cô gái còn trinh trắng chưa biết chuyện nam nữ.
HOÀNG MAO A ĐẦU 黃毛丫頭 : là Con bé tóc vàng non, còn chưa đen, ý chỉ Con bé con, ta nói " Con bé miệng còn hôi sửa !"
HOÀNG QUA 黃瓜 : Không phải dưa màu vàng, mà là Dưa Leo.
HOÀNG ĐẬU 黃豆 : Không phải đậu vàng, mà là Đậu Nành.
HOÀNG NGƯU 黃牛 : Không phải là Trâu Vàng, mà là Con Bò.
HOÀNG SÀO 黄巢
(835-884)Người tỉnh Sơn Đông, chuyên bán muối lậu. Cuối đời Đường, năm
875 Hoàng Sào lãnh đạo nông dân phất cờ khởi nghĩa, với khẩu hiệu QUÂN
BÌNH (mọi người đều ngang bằng nhau). Năm 881 đánh chiếm Trường An của
nhà Đường, lập nên nước Đại Tề, xưng là Thừa Thiên Ứng Vận Khải Thánh
Tuấn Văn Tuyên Võ Hoàng Đế 承天应运启圣睿文宣武皇帝. Sau tuy bị nhà Đường trấn áp,
nhưng từ đó về sau, nhà Đường cũng dần dần đi vào con đường diệt vong.
Sử gọi sự kiện nầy là "Hoàng Sào chi loạn" (Cuộc nổi loạn của Hoàng
Sào).
Tương
truyền, Hoàng Sào tướng mạo xấu xa, nên khi thi đậu Võ Trạng Nguyên,
nhà vua chê xấu không phong cho quan chức. SÀO đã nổi giận mà viết 2 câu
thơ:
Đản đắc mã tiền tam thiên tốt, 但得馬前三千卒,
Thu đoạt Đường triều tứ bách châu. 收奪唐朝四百州。
Có nghĩa :
Nếu ta có được ba ngàn quân sĩ trước ngựa, thì ta sẽ...
Đánh chiếm bốn trăm châu quận của nhà Đường như chơi!
Trong khi Từ Hải đang:
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô qủa thiếu gì đế vương.
Trước cờ ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
... thì cô kiều đã khuyên Từ Hải quy hàng với lời mĩa mai Hoàng Sào như sau:
Làm chi để tiếng về sau,
Ngàn năm ai có khen đâu Hoàng Sào?!
... chỉ vì lời khuyên đó mà Từ Hải phải chết đứng... "giữa làn tên đá bời bời, Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ!". Qủa thật, "đằng sau cái chết của một người đàn ông, cũng có bóng dáng của một người đàn bà!" Qủa không sai chút nào!
Cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào
HUỲNH LIÊN, HUỲNH BÁ, HUỲNH CẦM
黃蓮, 黃柏, 黄芩: là Ba vị thuốc chủ yếu trong thang thuốc trị Thanh nhiệt,
giải độc, mát gan, có vị đắng khó uống. Bà con Lục Tỉnh hay nói chơi
rằng:
Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm,
Uống vô một miếng thì nằm ngay đơ!
Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh kỳ,
Uống vô một miếng đạo tì nó khiêng!
HUỲNH TUYỀN 黄泉 : là Suối Vàng, theo mê tín Á Đông thì nơi người chết ở có con suối màu vàng. Theo Tả Truyện, Ẩn Công Nguyên Niên có câu:
Bất cập huỳnh tuyền, vô tương kiến dã !
不 及 黄 泉 , 無 相 見 也 !
Có nghĩa :
Chưa đến được suối vàng thì sẽ không gặp nhau!
Khi biết mả Đạm Tiên không ai cúng quải gì cả, cô Kiều mới "Sẵn đây ta thắp một vài nén nhang":
Gọi là gặp gỡ giữa đàng,
Họa là người dưới SUỐI VÀNG thấu cho!
Có tất cả 10 chữ được ghép bởi bộ HUỲNH nầy, tiêu biểu có chữ :
HUỲNH 黌 :
là Tên gọi trường học ngày xưa. Ngày xưa gọi nơi học trò tụ tập lại để
học là HUỲNH MÔN 黌門, HUỲNH VŨ 黌宇 hoặc HUỲNH CUNG 黌宮. Gọi học trò là
HUỲNH MÔN KHÁCH 黌門客. Trong tuồng tích "Hoàn Hồn Ký 還魂記 " (còn có tên là
Mẫu Đơn Đình 牡丹亭 của Thang Hiển Tổ đời Minh có câu:
黄門舊是黌門客, Hoàng môn cựu thị huỳnh môn khách,
藍袍新作紫袍仙。 Lam bào tân tác tử bào tiên.
Có nghĩa :
Cũng là học trò của trường học ngày xưa, chỉ khác là...
Áo bào xanh của thư sinh đã đổi thành áo bào tía của quan rồi.
Hoàn Hồn Ký ( Mẫu Đơn Đình )
LỔ 鹵 : là Đất mặn, là Bã Muối. LỔ 鹵 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau:
楷書
| 金文 | 金文大篆 | 小篆 | 繁体隶书 |
|
| |
| |
Ta thấy :
Từ Kim Văn cho đến Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của một ruộng muối
được phân ô hẵn hoi; bốn chấm ở phần giữa là các bã muối còn đọng lại;
phần Lệ Thư có thêm 3 chấm Thủy 氵để chỉ là phải có nước biển chảy vào,
nên ...
LỔ 鹵 là Muối thiên nhiên, còn khi đã qua tay người bào chế thành MUỐI thì gọi là DIÊM 鹽 .
LỔ 滷 có 3 chấm thủy là Nước Kho, Nước Khìa, Nước Phá Lấu.
* PHÁ LẤU 打滷 là Âm TRIỀU CHÂU, là một hình thức KHO theo kiểu của người
Tiều Châu: Có nước Tương, Tỏi, Riềng, Ngũ Vị Hương... Ta quen gọi là
KHÌA, sau vì khẩu vị mỗi địa phương một khác, nên mặn nhạt gia giảm khác
nhau, lại phát sinh thêm món PHÁ LẤU. Chớ thật ra Phá Lấu là Khìa, Khìa
là Phá Lấu, nhưng bây giờ lại thành 2 món khác nhau!
Gia vị, Trứng và thịt Phá Lấu kiểu Tiều Châu
LỔ 鹵 còn được thông dụng với LỔ là LỔ MẢNG 魯莽.
LỔ 櫓 là Cây Dằm, cây Chèo.
LỔ 擄 là Bắt bớ, Chiếm đoạt.
Có tất cả 9 chữ được ghép bởi bộ LỔ nầy, tiêu biểu có:
DIÊM 鹽 :
là Muối. DIÊM ĐIỀN 鹽田 là Ruộng Muối. Câu đầu tiên trong "bài thơ TỨ
KHOÁI" là: Cửu hạn phùng cam võ 久旱逢甘雨 là Hạn lâu ngày gặp mưa ngọt đổ
xuống. Nhưng nếu như muốn diễn tả bực mình mà Chẳng Khoái chút nào, thì
phía trước thêm 2 chữ nữa thành: DIÊM ĐIỀN cửu hạn phùng cam võ 鹽田久旱逢甘雨.
Có nghĩa là Ruộng Muối nắng lâu gặp mưa ngọt đổ xuống! Muối sẽ chảy
tiêu tan hết cả!
SÀI MỄ DU DIÊM 柴米油鹽: là Củi, Gạo, Dầu, Muối: 4 thứ không thể thiếu
trong cuộc sống hằng ngày của con người. Còn muốn diễn tả cuộc sống
phong lưu hơn một chút nữa, gọi là " Khai môn thất kiện sự 開門七件事: là 7
chuyện phải lo khi sáng sớm mở cửa nhà ra, đó chính là:
柴米油鹽醬醋茶 Sài Mễ Du Diêm Tương Thố Trà
Có nghĩa là :
Củi, Gạo, Dầu, Muối, Tương, Giấm, Trà
SÀI MỄ PHU THÊ
柴米夫妻 : Vợ chồng vì củi gạo mà kết hợp nhau, chỉ mức sống vật chất căn
bản tối thiểu để vợ chồng nương tựa với nhau mà sống. Vợ chồng nghèo
chung lưng nhau để kiếm miếng ăn qua ngày.
Ngày
xưa, chỉ có các tỉnh vùng duyên hải là ăn muối rẻ thôi, còn các tỉnh
sâu trong lục địa thì giá muối rất mắc, vì thuế mắc. Sử Ký -Hóa Thực
Liệt Truyện có câu: Sơn Đông thực hải diêm, Sơn Tây thực diêm lổ
山東食海鹽,山西食鹽鹵。——《史記·貨殖列傳》Có nghĩa: Ở tỉnh Sơn Đông vì sát biển nên ăn muối
bọt, muối trắng; Ở tỉnh Sơn Tây xa biển nên ăn muối cục, muối cặn. Vì
thế mà có rất nhiều người buôn muối lậu để làm giàu. Tội buôn muối lậu
là tội rất nặng, nên ông bà ta mới có câu nói là:
Nam đại bất hôn như liệt mã vô cương,
男 大 不 婚 如 劣 馬 無 韁,
Nữ đại bất giá như tư diêm phạm thủ.
女 大 不 嫁 如 私 鹽 犯 首。
Có nghĩa :
Con trai lớn mà không cưới vợ thì như là con ngựa chứng không có dây
cương vậy. (Cứ mặc sức mà phóng càn phóng ẩu phóng ... túng, vì không có
con vợ cằn nhằn kềm chế!)
Còn
con gái lớn mà không lấy chồng thì như tên cầm đầu của bọn buôn muối
lậu vậy! (Không biết lúc nào bị bể ra, bị bắt bỏ tù xấu hổ!) Dân Nam Kỳ
Lục Tỉnh thì nói là: "Có con gái lớn trong nhà, như có hủ mắm treo giàn
bếp" Không biết chừng nào nó rớt xuống, bể ra, sẽ thối om cả xóm!
HÀM 鹹 : là Mặn. HÀM NGƯ 鹹魚 là Cá mặn. HÀM NHỤC 鹹肉 là Thịt muối. HÀM THÁI 鹹菜 là Cải muối .
HÀM 鹹 đồng âm và thông dụng với chữ HÀM 咸 là Đều, là Toàn Bộ, là Phổ
biến, như HÀM LAI VẤN TÍN 咸來問訊 : là Đều đến để hỏi thăm tin tức.
HÀM DƯƠNG 咸陽
là Kinh đô của nước Tần thời Chiến Quốc (năm 350 trước Công Nguyên) và
cả sau nầy nữa. Đến năm 206 trước Công Nguyên bị Hạng Võ Sở Bá Vương
đốt sạch. Trong Chinh Phụ Ngâm khúc tả người Chinh Phụ trông ngóng khi
đưa tiễn chồng lên đường chinh chiến:
...Bến Tiêu Tương cách HÀM DƯƠNG,
Cây HÀM DƯƠNG cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu,
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Tình chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?!
Tình chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?
LỘC 鹿 : là Con NAI. LỘC 鹿 là chữ Tượng Hình, theo diễn tiến của chữ viết như sau:
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn cho đến Kim Văn Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của
một con hươu, con nai vàng ngơ ngác có sừng có gạc có cái đuôi ngắn và
có 4 chân hẵn hoi, nên...
LỘC 鹿 là
một loại thú hoang hiền lành, có khứu giác và thính giác rất nhạy vì
bản năng sinh tồn, nên chỉ cần một tiếng động nhỏ cũng dễ dàng khiến cho
chúng... nhảy nai! LỘC có rất nhiều chủng loại, nhưng thường gặp là 4
loại sau đây: THỦY LỘC 水鹿, BẠCH THẦN LỘC 白唇鹿, MAI HOA LỘC 梅花鹿 và MÃ LỘC
馬鹿.
Nhắc đến MÃ LỘC làm ta lại nhớ đến câu thành ngữ:
CHỈ LỘC VI MÃ 指鹿為馬 : là "Chỉ con Nai bảo là con Ngựa!"
Theo
SỬ KÝ, đời Tần Nhị Thế (con của Tần Thủy Hoàng), Hoạn Quan TRIỆU CAO
chuyên quyền, luôn muốn tìm cách soán đoạt ngôi vua, nhưng còn ngại bá
quan có người phản đối. Một hôm, đang thiết triều, Cao cho người dẫn đến
một "con nai", rồi tâu với vua rằng mình tặng cho vua một con "tuấn
mã". Tần Nhị Thế cười bảo: "Thừa Tướng sai rồi. Đó rõ ràng là con nai
mà, ngựa thì làm sao có sừng có gạc cho được?" Triệu Cao sa sầm mặt
xuống bảo rằng: "Đó chính là con Thiên lý mã. Không tin, Bệ Hạ cứ hỏi
các quan bên dưới xem sao?!" Đoạn quay xuống quắc mắt hỏi bá quan rằng:
"Con nầy là Ngựa hay Nai?" Bá quan có người nín thinh không dám trả
lời, có người cương trực thì bảo đó là Nai, nhưng đa số vì khiếp sợ
trước uy quyền của Triệu Cao đều trả lời là "Ngựa" khiến cho Tần Nhị
Thế cũng ngẩn ngơ bẽn lẽn. Những người nín thinh và trả lời là Nai trước
sau đều bị Triệu Cao tìm cách hại cho tan nhà nát cửa, cả Thừa Tướng Lý
Tư cũng bị chết chém. Cuối cùng Tần Nhị Thế bị ép thoái vị và tự sát.
Sau nầy, hễ người nào hay ăn nói lật lọng, ỷ quyền ỷ thế, điên đão thị
phi, thay trắng đổi đen thì đều gọi là CHỈ LỘC VI MÃ 指鹿為馬.
Chỉ LỘC Vi MÃ 指鹿為馬.
Đời Tần nầy cũng phát xuất một câu nói rất nổi tiếng về con Mai Hoa Lộc
mà các tiểu thuyết võ hiệp, tiểu thuyết lịch sử Trung Hoa thường hay
nhắc tới, đó là câu: "Đuổi bắt Hươu ở Trung Nguyên". Theo SỬ KÝ- Hoài Âm
Hầu Liệt Truyện có câu: 秦失其鹿, 天下共逐之. 史 记·淮阴侯列传. Tần thất kỳ lộc, thiên
hạ cộng trục chi. Có nghĩa: Nước Tần để xẩy mất con nai, thiên hạ đua
nhau đuổi bắt. Ý chỉ: Tần để mất nước, nên thiên hạ đua nhau giành lấy.
Theo tích sau đây:
Sau khi diệt Trần Hi, Lưu Bang về đến kinh thành thì Lữ Hậu đã giết Hàn
Tín rồi. Lưu Bang hỏi trước khi chết Hàn Tín có nói gì không? Lữ Hậu
đáp là: Trước khi chết, Hàn Tín đã ngước mặt lên trời than rằng: "Ta rất
hối hận vì đã không nghe theo kế của Khoái Thông!" Khoái Thông là mưu
sĩ của đất Tề. Lưu Bang nghe nói, bèn cho người triệu Khoái Thông đến
hỏi rằng: "Nghe nói nhà ngươi xui Hàn Tín tự lập làm Vua, có không?"
Khoái Thông đáp rằng: "Đúng vậy, Tiểu tử đó không nghe theo lời tôi
khuyên, nếu nghe theo tôi, thì ngày nay ông có còn làm vua được hay
sao?" Lưu Bang giận, ra lệnh vứt Khoái Thông vào vạc dầu. Khoái Thông
la lớn: "Oan cho tôi!" Lưu Bang hỏi: "Rõ ràng ngươi xúi hắn phản ta,
còn kêu oan nổi gì?" Khoái Thông đáp rằng: "Tần thất kỳ lộc, thiên hạ
cộng trục chi, ư thị cao tài tật túc giả tiên đắc yên.
秦失其鹿,天下共逐之,於是高材疾足者先得焉". Có nghĩa: "Nước Tần để xẩy mất con Hươu, thiên
hạ cùng tranh nhau giành bắt lấy. Ai cao lớn giò dài chạy nhanh thì bắt
được mà thôi." Đuổi bắt hươu ở Trung Nguyên là thế. Ai cũng có quyền
tranh giành bắt lấy nó, các lộ anh hùng đều có binh mã riêng của mình.
Ai vì chúa nấy mà không cần biết đến người khác. Lúc đó tôi đang theo
phò Hàn Tín, nên chỉ biết có Hàn Tín mà thôi, đâu biết có Ngài. Tôi
khuyên Hàn Tín xưng vương đó là lòng trung thành của tôi đối với Hàn
Tín, sao lại nói là có tội? Vả lại, lúc bấy giờ rất nhiều lộ quân nổi
dậy để tranh giang sơn của nhà Tần, bây giờ, họ cũng đã quy thuận, chẳng
lẽ Bệ Hạ còn muốn bắt họ về để giết hết hay sao? Lưu Bang nghe nói chí
lý, bèn ra lệnh tha cho Khoái Thông không giết.
Truyện nầy cho ta đến mấy thành ngữ sau đây:
TẦN THẤT KỲ LỘC 秦失其鹿 : là Nhà Tần đánh mất con hươu, tức là Nhà Tần để mất thiên hạ.
TRỤC LỘC TRUNG NGUYÊN 逐鹿中原 : là Đuổi bắt con hươu ở đất Trung Nguyên, tức là chiếm lấy đất Trung Nguyên.
QUẦN HÙNG TRỤC LỘC 群雄逐鹿 : là Các lộ anh hùng khắp nơi đều đuổi bắt hươu, đều muốn làm vua Trung Nguyên.
CAO TÀI TẬT TÚC 高材疾足 : là Thân thể cao to, giò cẳng mau lẹ, chỉ những người có tài và nhanh nhẹn nắm bắt thời cơ.
TIỆP TÚC TIÊN ĐĂNG 捷足先登 : là Nhanh chân thì lên trước, nghĩa là: Ai đến
trước chiếm được ưu thế trước. Dân Nam Kỳ Lục Tỉnh nói là: Thằng
nào tới trước thì làm cha!
Tiệp túc tiên đăng : Nhanh chân thì lên trước
Có tất cả 38 chữ được ghép bởi bộ LỘC nầy, tiêu biểu có :
XẠ 麝
: là Một loại Hươu nhỏ, không có sừng, có túi tiết ra mùi thơm ở phía
trước bụng, gọi là XẠ LỘC 麝鹿. Ta thường nghe câu nói: HỮU XẠ TỰ NHIÊN
HƯƠNG 有麝自然香: là Nơi nào có con XẠ thì nơi đó tự nhiên sẽ có mùi thơm.
Sau dùng rộng ra để chỉ: Nếu ai làm việc thiện thì tự nhiên sẽ được
tiếng tốt, và nếu là người tốt thì tự nhiên sẽ có tiếng lành đồn xa mà
thôi! Nhưng ...
XẠ THỬ 麝鼠 : là con Chuột Chù, Chuột Xạ thì lại có mùi... không thơm tí nào cả, khác với ...
XẠ HỒ 麝狐 :
là con Chồn Hương thì lại có mùi thơm... thoang thoảng. Người Hoa gọi
những người HÔI NÁCH là HỒ XÚ 狐臭: là có mùi hôi của loài chồn.
Tiêu biểu cho bộ LỘC còn có chữ :
KỲ LÂN 麒麟 :
Tên của một trong 2 con vật thần thoại của Tứ Linh là: Long, Lân, Qui,
Phụng. Chỉ có Qui và Phụng là có thật, còn Long (Rồng) và Lân (Kỳ Lân)
là hai con vật chỉ có trong truyền thuyết.
KỲ LÂN 麒麟 tượng trưng cho các bậc thánh nhân, theo truyền thuyết, trước
khi bà Nhan Thị sinh ra đức Khổng Tử thì có Kỳ Lân xuất hiện ở nước Lổ.
Kỳ Lân còn tượng trưng cho các bậc minh quân thánh chúa, cho những
người tài giỏi, cho con trai, nên trong ngày thành hôn, trước tân phòng
của cô dâu chú rể thường được dán 4 chữ: KỲ LÂN ĐÁO THỬ 麒麟到此 để mong ước
cho sớm sanh Con Trai qúy hiển, nên...
LÂN
TỬ 麟子 : là Chỉ con trai của các bậc quyền quý, hay sẽ trở nên quyền
qúy. Sau dân gian dùng rộng ra đều gọi con trai là Lân Tử, tức là Qúy Tử
貴子 đó vậy!
KỲ LÂN là con thú nhân từ, mang lại điềm lành cho phong hòa vũ thuận,
có câu: Kỳ Lân xuất thế là điềm của thiên hạ thái bình, nên hằng năm
vào ngày Tết Nguyên Đán ta có tục lệ múa Lân là muốn cầu cho mưa thuận
gió hòa, quốc thái dân an, và các đoàn lân sau khi múa xong thường để
lại tấm thiệp chúc xuân có 4 chữ:
LÂN CHỈ TRÌNH TƯỜNG 麟趾呈祥 : có nghĩa là: Dấu chân của con lân đi tới đâu là để lại điềm lành, điềm cát tường cho nơi đó.
KỲ LÂN CÁC 麒麟閣 : là Dãy lầu có trạm trổ hình Kỳ Lân và hai bên có tượng
Kỳ Lân đứng chắn hai bên phía trước do vua Hán Tuyên Đế xây nên để
trưng các hình đồ họa của các bậc công thần có công với vua với nước.
Múa Lân và Lân Chỉ Trình Tường - Kỳ Lân
Tiêu biểu cho bộ LỘC 鹿 còn có chữ :
LỆ 麗 :
là Đẹp rực rỡ. Đi với chữ MỸ để cho từ kép MỸ LỆ 美麗 là Đẹp Đẽ, chỉ vẻ
đẹp hoàn hảo không chê vào đâu được. MỸ NHÂN 美人 là Người đẹp bình
thường, nhưng LỆ NHÂN 麗人 là Người đẹp rực rỡ. LỆ NHẬT 麗日 Không phải chỉ
Mặt Trời đẹp, mà là chỉ Nắng đẹp rực rỡ. Ta có thành ngữ PHONG HÒA NHẬT
LỆ 風和日麗 để chỉ thời tiết đẹp đẽ của mùa xuân: Gió xuân hòa dịu, nắng
xuân rực rỡ làm say đắm lòng người. Nhớ năm 27 tuổi, khi cưới vợ tôi đã
tự mình viết câu đối dán 2 bên của chữ TÂN HÔN như sau:
Nhựt lệ phong hòa, môn đình hữu hỉ;
日 麗 風 和, 門 庭 有 喜;
Nguyệt viên hoa hảo, gia thất hàm nghi.
月 園 花 好, 家 室 咸 宜。
Có nghĩa :
Nắng đẹp gió hòa, đúng lúc gia đình có hỉ sự;
Trăng tròn hoa đẹp, gia đạo mọi việc đều tốt lành.
26 năm sau, con trai tôi cưới vợ, thấy cuộc sống của vợ chồng tôi cũng
tốt đẹp yên vui, nên tôi viết lại câu đối trên cho hôn lễ của con tôi.
Đến nay cũng đã 17 năm rồi. Hi vọng mười năm sau thằng cháu nội cưới vợ,
lại có dịp viết lại câu đối trên cho nó đủ... 3 đời hôn lễ.
26 năm trước (1974) 26 năm sau (2000).
( Phóng lớn hình của 2 cặp đứng dưới chữ Tân Hôn
sẽ thấy hai đôi liễn giống nhau.)
Cuối cùng là một chữ nhiều nét nhất trong bộ LỘC 鹿 mà cũng là chữ nhiều nét nhất trong chữ NHO xưa, đó là chữ :
THÔ 麤 : gồm có 3 chữ LỘC 鹿 chồng lên nhau, mỗi chữ LỘC có 11 nét, vị chi là 33 nét, là chữ nhiều nét nhất trong Hệ Thống chữ Hán cổ.
THÔ 麤 : là Thô Kệch, là Kềnh Càng, là Không khéo léo chút nào cả! THÔ
麤 nầy cũng thông dụng với chữ THÔ 粗 là THÔ TỤC 粗俗, THÔ LỔ 粗魯, THÔ BẠO
粗暴, THÔ THIỂN 粗淺...
THÔ TÂM 粗心
: là Lơ Là không để ý, Ta có thành ngữ THÔ TÂM ĐẠI Ý 粗心大意 là Lơ đểnh
không tập trung, giới bình dân gọi là Lơ lơ Láo láo, là Xớn xa xớn Xác.
THÔ TRÀ ĐẠM PHẠN 粗茶淡飯 : là Trà Thô Cơm Lạt, ta nói là Cơm Canh Đạm Bạc, Dưa Muối Qua Ngày.
THÔ
CHI ĐẠI DIỆP 粗枝大葉 : là Cành Thô Lá Lớn, chỉ các loại cây kềng càng,
Cành To Lá Lớn, đồng thời cũng dùng để chỉ những người Thô Kệch, Cao Lớn
Dềnh Dàng, Lớn xác. Thành ngữ nầy trái với thành ngữ KIM CHI NGỌC DIỆP
金枝玉葉 là Cành Vàng Lá Ngọc: dùng để chỉ Con cái thân tộc của vua chúa
ngày xưa. Ngày nay dùng để chỉ những người cao sang quyền qúy, mảnh
mai ẻo lả.
Thô chi đại diệp Kim chi ngọc diệp
Như thường lệ, trước khi kết thúc bài viết nầy, mời tất cả cùng đoán một chữ cho vui:
Ngã vô tha hữu, 我無他有,
Thiên vô địa hữu. 天無地有。
Hồ vô trì hữu, 湖無池有,
Dĩ lệ dã hữu ! 迤邐也有。
Có nghĩa :
Ta không có hắn có,
Trời không có đất có.
Hồ không có ao có,
Lần lược rồi cũng sẽ có!
Đoán một chữ với 4 câu trên!
Hẹn bài viết tới : Các bộ 11 nét (tt và hết).