30 thg 11, 2025

Thứ Bảy 29/11/2025 - Đặng Việt Lợi

 Thứ Bảy 29/11/2025

Sáng nay, chẳng hẹn trước tôi ghé thăm Ông Thầy U100 - Thây Duy Linh Nguyen - cựu giáo sư trường SPSG, sau gần một tuần không gặp! Và rồi hai Thầy Trò dong xe đến “Ca phê Chuc Nguyen”. Thực ra đây là nhà của anh Chúc - Cựu giáo sinh K10, nơi mà sáng nào anh ấy cũng ngồi nhâm nhi cà phê cùng các thân hữu ngay trước vĩa hè!
Đến nơi lại thấy có anh Trí Nghĩa (K11) và 2 người bạn của anh Chúc ngồi sẵn ở đấy!
Một lát sau, được gọi, lại có thêm anh Duy Tân (K10) đến trên chiếc xe lăn chạy điện accu. Dù hoàn cảnh khốn khó, sức khoẻ lại yếu, đi đứng khó khăn, nhưng anh ắy vẫn tự lực mưu sinh bằng nghề bán vé số dạo trên chiếc xe lăn ấy! Ấy thế mà nghe báo, anh đã cố chạy xe đến để thăm Thầy! Thật thương và cảm động!
Cả anh Ngoc Hung Vu (K10) và anh Nguyễn Văn Trung (K8), cũng lần lượt chạy tới khi được cho hay có Thầy Linh ghé.
Và thế là Thầy và các học trò già cũ tha hồ “tán gẫu” cùng nhau!
Riêng “nhà đài”, khi đưa Thầy Linh về lại được anh Siển - con rể Thầy - khao một chầu phở trưa thật ngon!
Hôm nay, ngày cuối tuần, vui như vậy đấy!
Ps
Bà xã của anh Chúc đích thân hỗ trợ việc ghi hình cho nhóm cà phê! Cám ơn “chị phó nhòm” nhiều!



Vương Trùng Dương: Dương Ngọc Sum – từ cậu bé chăn trâu trở thành giáo sư khả kính (T.Vấn và Bạn Hửu )






Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người.

Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn.

Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông.

* Tuổi Thơ


Tân Uyên ngày xưa thuộc tỉnh Biên Hòa, cách Sài Gòn khoảng 50km về hướng tây bắc. Quê hương của nhà văn Bình Nguyên Lộc đã đề qua nhiều bài viết vùng đất nầy. Và là quê hương của Dương Ngọc Sum.

Ông sinh năm 1935, thân phụ là nhà giáo qua đời năm 1946, vì lý do chính trị… Ông viết: “Sau mấy tháng trốn tránh: ban ngày lính Tây ruồng bố, bắt bớ, ban đêm Việt Minh về phá hoại, đấp mô, đốt chợ, đốt trường học, dùng chày đập đầu các viên chức trong làng. Cha tôi mất đêm 29 sáng 30 tháng Chạp Ất Dậu (1/2/46), chiều 30 Tết âm thầm chôn trong vườn nhà, sáng hôm sau là Mùng Một Tết Bính Tuất (2/2/1946) thọ 40 tuổi, chôn cất nội ngày 30 vì nhà nghèo, do ông Ngoại cho tiền lo đám tang, vì an ninh (bị Việt Minh và lính Tây theo dõi) và vì tập tục không để qua năm”. Trong hoàn cảnh khó khăn, một Mẹ, sáu con nhỏ: Người anh lớn 14 tuổi, bị khuyết tật (cận thị nặng), em út, mới mấy tháng tuổi (sau là pilot trực thăng Phi Đoàn 2I9).

Vừa mới đi học trường làng, ngày 9/3/45 Nhật đảo chánh Pháp, chiếm đóng trường, phải nghỉ học. Trong trường tiểu học Tân Ba (chương trình Pháp), chỉ có tới Lớp Nhì, học giỏi nhất lớp nhưng vì hoàn cảnh khó khăn nên không thể vào Sài Gòn. Ở nhà giúp Mẹ gặt lúa, đập lúa, tỉa đậu, nhổ đậu, lên giồng khoai, giữ trâu, hốt phân, rửa chuồng. Gặp lúc có nhiều công việc, phải xin cho nghỉ học mấy hôm…

Câu chuyện tuổi thơ đề cập. Lúc đó thi vào Lớp Năm ở Pétrus Ký rất khó với tỷ lệ 1/3 và được trúng tuyển. Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký được thành lập cho năm học đầu tiên 1928-1929. Dạy theo chương trình Pháp, thời Việt Nam Cộng Hòa, trường trung học công lập mới chuyển sang chương trình Việt.

Thấy con hiếu học nên thân mẫu vay mượn, gom tiền dắt xuống Sài Gòn kiếm nhà bà con xin cho ở trọ nhưng không có kết quả!

Trở lại quê nhà cùng các bạn mục đồng dẫn trâu ra các đám ruộng lúa đã gặt xong, bên cạnh hương lộ, cho ăn lúa, rạ còn sót, trước khi bắt đầu việc cày bừa, rồi xúm nhau lên mặt đường chơi đánh đáo với nhau. Bất ngờ có một ông già đi ngang qua, ngừng xe đạp, ra dấu gọi lại bảo. Ông giật mình ngó lên thì ra là thầy dạy. Thầy ôn tồn hỏi: “Sắp đến ngày rồi sao con chưa đi tựu trường?”. Ông trả lời “Thưa Thầy, Mẹ con bảo con nghỉ học vì không có chỗ ở và không tiền trả tiền cơm tháng”. Thầy ngỏ ý tiếc rẻ, bao nhiêu người thi không đậu, còn mình thi đậu rồi lại bỏ không học! Thật đáng tiếc! Thầy bảo đưa vào nhà gặp Mẹ để tìm cách giúp đỡ. Mẹ ông khóc: “Tôi cũng muốn cho con tôi đi học để sau nầy nối nghiệp Cha nó nhưng tôi không đủ sức, còn có anh nó, nhưng bị khuyết tật và 4 đứa em nhỏ, chỉ có nó là đứa chịu cực chịu khổ ở nhà để giúp tôi thôi!”. Chia tay cảm dộng, Thầy của ông ra về, còn ông trở lại bãi chăn trâu!

Hôm sau, Thầy cho gọi ông lên nhà ở Ấp Chợ để báo tin mừng: Hôm qua, Thầy đã cấp tốc đi Sài Gòn, đến nhà người học trò cũ cùng làng, nay đã thành đạt, đang làm thư ký cho hãng cưa gỗ của người Pháp Brossard Mopin tại Dakao, có vợ và một con nhỏ, đang tìm một garcon bé trai giúp việc sai vặt. Thầy đề nghị với người học trò cho ông vào làm, không cần lương, chỉ cho ở trọ và đươc đi học mỗi ngày một buổi, cơm nước thì không đòi hỏi gì, có gì ăn nấy, nhà chật, có thể ra trại cưa ở chung với thợ cưa, đèn thì nhờ đèn security để học bài, làm bải. Đi học lạ đường sá thì theo bạn Trần Kim Thạch, cùng đỗ một khóa nhưng khác lớp, về sau là Tiến Sĩ Địa Chất ở Anh Quốc. Thầy cho ông một xe đạp cũ của con, 30 đồng thay vỏ ruột xe, và 20 đồng mua sách vở và dặn thỉnh thoảng ghé thăm thầy, cho biết có cần gì thì cho Thầy biết sẽ giúp cho.

Trải qua 4 năm Cao Đẳng Tiểu Học của con nhà nghèo (Enseignement Primaire Supérieure) (1949-1953)

Trong 4 năm dài, bao nhiêu khó khăn mà một thanh thiếu niên, mồ côi nhà nghèo phải giải quyết để không bỏ cuộc và đạt mục đích. Được thọ giáo với các vị thầy nổi tiếng. Hai năm 2ème và 3ème học cầm chừng, dưỡng sức, năm 4ème quan trọng và ông thi đậu 3 cuộc thi chỉ trong một Khóa (1ère Session):

Bằng Thành Chung (Diplôme d’Etudes Primaires Supérieures Indochinoises – Cao Đẳng Tiểu Học Đông Dương) ra trường thi đậu với Mention Assez Bien

Brevet D’etudes Du Premier Cycle Du Second Degré (không bắt buộc, do Bộ Giáo Dục Pháp tổ chức, ông tự ý nộp đơn xin thi và thi đậu).

Seconde Moderne, thi đâu với Học Bổng Demi-Boursier (học bổng bán phần)

Thầy đậu Viết Écrit Diplôme bên Pétrus Ký và bên Marie Curie.

Dưới thời Pháp thuộc hệ thống giáo dục tại Việt Nam giữa thập niên 1940’ được tổ chức theo mô hình Pháp:

Sơ Đẳng Tiểu Học – Certificat d’Études Primaires Franco-Indigènes (CEPFI)

Cao Đẳng Tiểu Học – Văn bằng: Diplôme d’Études Complémentaires (DEC) hay còn gọi: Bằng Thành Chung – Brevet d’Enseignement Primaire Supérieur (BEPS)

Tú tài bán phần (Tú tài I) – Baccalauréat I, còn gọi Premier Cycle

Tú tài toàn phần (Tú tài II) – Baccalauréat II. Điều kiện vào đại học.

* Thầy Giáo & Người Lính

Sau khi tốt nghiệp Tú Tài II (toàn phần) ông thi vào trường Sư Phạm, Khóa I hệ ba năm (1955-1958) lúc đó gọi là Cao Đẳng Sư Phạm. Theo học ngành nầy sinh viên có học bổng, ổn định cuộc sống. Ông ở trọ nhà của vợ chồng ông bà chủ xe đò Sài Gòn – Vũng Tàu và lo cho người em lên Sài Gòn học. Sau khi ra trường, ông được bổ nhiệm về dạy trường trung học Pétrus Ký, Đệ Nhất Cấp. Ông tiếp tục theo học Đại Học Văn Khoa, đậu bằng Cử Nhân Giáo Khoa Văn Chương Việt, dạy các lớp Đệ Nhị Cấp. Giáo sư Sử Địa của Pétrus Ký, ngoài ra, ông còn dạy thêm vài trường với các môn dạy khác nhau.



Với người bạn đời từ khi ông học năm Deuxième Année tại Lycée Pétrus Ký năm 1950, khi ông ở đậu để đi học Trường Pétrus Ký… Năm 1960, cô Hồ Thị Hiệp, tốt nghiệp Sư Phạm, mới ra trường dạy tại Trường Nữ Trung Học Lê Ngọc Hân ở Mỹ Tho rồi Trường Mạc Đĩnh Chi ở Sài Gòn. Sau khi đám cưới rồi cùng dạy môn Sử, Địa ở trường Pétrus Ký. ÔB được cấp căn nhà trong cư xá của nhà trường.

Năm 1962, cô có bầu, thì có lệnh Tổng Động Viên, ông nhập ngũ Khóa 14, Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ra trường, may mắn cho về phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận III đóng tại Thành Oma, sau thuyên chuyển xuống Phòng Tuyển Binh ở Bến Chương Dương. Sau đó được đổi thành Sở Động Viên 3 trực thuộc Nha Động Viên / Bộ Quốc Phòng. Năm 1966 giải ngũ, dạy lại trường xưa.

Sau biến cố Mậu Thân 1968, thay vì đến trình diện tái ngũ tại đơn vị Quản Trị Địa Phương 3, ông đến trình diện ngay tại Nha Động Viên BQP, và được giữ lại làm việc tại đó trong 2 năm, được thăng cấp bậc Đại Úy thì có lệnh biệt phái trở về Bộ Giáo Dục năm 1971…

Cuộc đời binh nghiệp của ông được may mắn vì phục vụ ở Sài Gòn nên có dịp dạy thêm.

Giữa năm 1971, đang trong tình trạng biệt phái tại Trường Pétrus Ký, Bộ Giáo Dục báo tin nhận “Nhiệm Vụ Mới”.

Trong Khối Nghiên Cứu & Phát Triển Giáo Dục, ông được bổ nhiệm phụ trách Văn Phòng của Khối, và cải ngạch Thanh Tra. Công việc nầy quá nặng nề và có sự tranh chấp nên ông muốn trở lại dạy học ở Trường Pétrus Ký cho thoải mái nhưng bị từ chối.

* Dương Tử


Với bút hiệu Dương Tử (người con họ Dương) sáng tác thơ, văn đã ghi lại quãng đời của ông từ tuổi thơ đến tháng ngày ở hải ngoại. Người bạn thân dạy cùng trường là giáo sư Vũ Ký, với sở học và sở thích văn chương Pháp, nếu ông đi vào lãnh vực biên khảo và dịch thuật sẽ có nhiều bài viết, tác phẩm có giá trị. Nhiều tác giả nổi tiếng nơi mái trường nầy như: Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Thanh Liêm, Võ Hoài Nam (Tiểu Tử), Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Xuân Hoàng, Trần Đại Lộc, Nguyễn Khắc Kham, Bùi Tuyết Hồng, Lê Văn Khoa, Lâm Vĩnh Thế, Nguyễn Hữu Ba, Phạm Mạnh Cương, Phạm Thế Ngũ… Và sau này các cựu học sinh đã theo học ngôi trường nầy khi định cư ở hải ngoại.

Sau năm 1975, ông đi tù, được thả năm 1978, gia đình ông bị đày đi vùng Kinh Tế Mới, cho hai con vượt biên. Ông cũng vượt biên nhưng thất bại, trong bài viết Một Chuyến Vượt Biên Kinh Hoàng với thảm cảnh hai đứa con còn nhỏ khi vượt biên, gặp nguy hiểm nhưng rồi được cứu vớt. Bài viết nầy ghi lại của cháu QH sau nầy kể cho ông.

Khi có chương trình H.O vì chỉ 3 năm nên không đủ tiêu chuẩn. Vợ chồng ông có con làm thủ tục bảo lãnh, khi phỏng vấn vì bị đi tù nên phái đoàn của Mỹ cho chuyển sang diện H.O.

Trong website Hội Ái Hữu Petrus Trương Vĩnh Ký Úc Châu có loạt bài Thư Của Thầy Dương Ngọc Sum “Cuộc Đời Của Người Trai Thời Loạn” Gởi Học Trò Petrys Ký, gồm 10 phần ghi lại cuộc đời của ông trong suốt nhiều thập niên qua. Với mái trường nầy, ông đã gắn bó từ thuở đi học và trở lại dạy. Có nhiều môn sinh sau đó cũng là đồng nghiệp với vị thầy nên có nhiều kỷ niệm.

Năm 2005, ông vào tuổi thất thập, nhà văn Huy Phương viết bài Dương Ngọc Sum & Cuộc Đổi Đời Trên Đất Mỹ. Trích những phần chính vì đã đề cập ở trên:

“Từ một thanh tra giáo dục, trở thành người quét chùa, bán chợ trời, giữ em, thợ nướng bánh Song Long… để làm lại cuộc đời. Cuộc đời của thầy giáo Sum gắn liền với ngành giáo dục từ khi ông ra trường sư phạm cho tới lúc ông phải đứng ra bàn giao Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa lại cho đoàn tiếp thu của Cộng Sản từ Hà Nội…

(Khi tị nạn ở Mỹ)… Thoạt đầu ông cũng hy vọng rằng, với vốn liếng học hành của mình, ông có thể kiếm được một việc làm tương đối trên đất Mỹ. Dương Ngọc Sum thi vào ngành cán sự xã hội, nhưng tiếng Anh với “accent” Pháp đặc của ông Mỹ nghe không nổi, sau đó ông lại hy vọng vào ngành giáo dục, được nhận vào làm “phụ giáo”, nhưng học khu chỉ cắt cho ông bốn giờ mỗi tuần, chia ra tại hai trường, nhưng với công việc như thế không thể nào đủ sống.

Không nản chí và nghĩ rằng phải cắp sách đến trường dạy nghề thì may ra mới kiếm được việc làm dễ dàng, Dương Ngọc Sum và nội tướng của ông cắp sách vào trường dạy nghề ghi danh theo học hai khóa học mà ông nghĩ là thiết thực nhất, chỉ trong vòng 6 tháng, đó là khóa “Nursing Assistant” và “Home Health Assistant”.

Tốt nghiệp, cả hai ông bà xin được việc tại Florida Hospital tại Huntington Beach, tuy ở hai department nhưng cùng một phiên trực trong ngày. Có thể nói nghề “Nursing Assistant” (tạm dịch là y công) là một nghề vất vả, khó nhọc nhất trong các bệnh viện, phải tiếp xúc, lo vệ sinh cho các bệnh nhân, nhất là các bệnh nhân liệt giường. Trong giới y tá tại Hoa Kỳ, người ta thấy phần lớn nhân viên là người Phi Luật Tân. Với số đông và làm việc lâu năm tại bệnh viện này, họ bênh vực nhau và kỳ thị, bất công ra mặt với hai người Việt Nam tại đây, do đó chỉ ít lâu sau, không chịu nổi căng thẳng và cực nhọc, thầy cô giáo Sum phải bỏ việc.

Sau đó, hai vợ chồng ghi danh vào college đi học lại, và thầy giáo Sum vừa đi học vừa làm đủ thứ nghề, tóm lại là ai chỉ việc hay giới thiệu việc gì thì làm việc đó. Có một thời gian có người giới thiệu, thầy Sum đến tư gia săn sóc cho một cụ già tám mươi tuổi đang bị bệnh (ông có licence “Health Care Assistant”). Ít lâu sau, cụ già qua đời, gia chủ quí cách làm ăn chăm chỉ của thầy, sợ thầy thất nghiệp lại nhờ thầy tạm babysit con mình, bồng bế, đút cơm, thay tã. Nhưng cũng chỉ được một thời gian ngắn, hai vợ chồng gia chủ phải đổi đi tiểu bang khác, Dương Ngọc Sum lại thất nghiệp.

Có người giới thiệu, Dương Ngọc Sum nhận đi quét chùa, mỗi giờ được trả $5.00, tám giờ cũng được $40.00. Ông cũng được bạn của con rủ đi bán chợ trời Thứ Bảy, Chủ Nhật tại South Coast cho một bà chủ Mỹ. Gian hàng này chuyên bán phong linh (chimes), sáng dọn hàng ra, chiều thu lại nhưng giờ khác đứng bán hàng. Một ngày nọ, cậu bạn đồng nghiệp, lúc cho hàng lên xe, cột dây không kỹ, phong linh bung ra rớt xuống đường gãy khá nhiều, cậu bị đuổi việc, thầy Sum vì tình đồng đội cũng “quit job” theo!

Lúc đó “Song Long Food To Go” trên đường Bolsa cần người làm bánh, ông Võ Khôi trước kia là phụ huynh học sinh của Petrus Ký, thấy thầy thất nghiệp giới thiệu cho thầy. Không ngờ ông thầy Sum này lại cần cù, chăm chỉ khéo tay, chỉ sau một năm nhào bột, đánh trứng, thầy được nâng đỡ lên làm thợ làm bánh, chỉ ra phân lượng, điều kiển máy nướng điện và cắt, bánh, phết kem để cho các cô thợ khác nặn hoa và chữ.

Làm bánh được hai năm, Dương Ngọc Sum lại bỏ nghề, trở lại Santa Ana College đi học mấy “tín chỉ” về chemistry. Sau khi hoàn tất chứng chỉ này này, ông lại vào xin việc tại một hãng mỹ phẩm, chuyên sản xuất mỹ phẩm cho các bà như kem rửa mặt, thoa mặt ban đêm, ban ngày và các loại kem đánh răng. Ít lâu sau không cạnh tranh nổi với hàng Âu Châu, hãng này lại quay sang sản xuất dược thảo (herbal medecine).

Qua bao nhiêu nghề nghiệp lang bạt, phải hơn bốn năm, Dương Ngọc Sum mới có được một việc làm ổn định, với đồng lương khá cao tại hãng mỹ phẩm này và hiện nay ông phụ trách phòng “Research & Development và Cosmetic Lab” của hãng. Nhờ vậy, ông mới đủ điều kiện bảo lãnh được cho gia đình con gái ông sang đoàn tụ cách đây sáu tháng. Năm nay, Dương Ngọc Sum đã vào tuổi 70, nhưng ông còn đủ sức khỏe để theo đuổi công việc này vài ba năm nữa.

Khi phải làm lại cuộc đời trên đất Mỹ với cái tuổi 55, nhiều khi Dương Ngọc Sum cũng thấy nản lòng. Ông đã phải làm những nghề nghiệp quá ư vất vả, xa lạ với cuộc đời của một thầy giáo như ông, nhưng bỏ nghề này theo nghề khác, chưa lúc nào Dương Ngọc Sum chịu thúc thủ nằm nhà, ăn tiền thất nghiệp hay xin trợ cấp. Ông không như những người khác vẫn ôm riết cái dĩ vãng của mình, ông lăn lưng vào cuộc sống không nề hà lấm láp. Phải nói, Dương Ngọc Sum là một người can đảm, ít có ai có nhiều nghề như ông trên đất Hoa Kỳ. Bạn bè, thân thích ai cũng biết ông là một người lạc quan, vui tính, thích quảng giao và tham gia những sinh hoạt hữu ích cho cộng đồng.

Ông dành thời gian để viết hầu hết cho các đặc san Petrus Ký trong nước Mỹ và ngoại quốc, có bài đăng trên các nhật báo Người Việt, Việt Báo, Viễn Ðông… và làm thơ với bút hiệu Dương Tử, có nghĩa là “con nhà họ Dương”.

Ngoài công việc hằng ngày, GS Dương Ngọc Sum tham gia các sinh hoạt giáo dục, xã hội như cố vấn cho Hội Ái Hữu Pétrus Ký Nam California, Hội Trưởng Gia Ðình Sư Phạm Hải Ngoại, thành viên Giải Khuyến Học và các trung tâm Việt Ngữ Nam Cali.


Từ một Giáo Sư Trung Học Ðệ Nhị Cấp, Thanh Tra Giáo Dục, phụ tá cho Phụ Tá Ðặc Biệt Tổng Trưởng, ông Dương Ngọc Sum khi đến Hoa Kỳ đã trở thành một người bán chợ trời, y công, chăm sóc người già, giữ trẻ, quét chùa… và cắp sách đi học rồi trở thành một chuyên viên mỹ phẩm cho một hãng sản xuất lớn tại Orange County. Với một tâm hồn lạc quan hiếm có, cùng với một sự phấn đấu phi thường, nhà giáo Dương Ngọc Sum là một trong những thành viên H.O. tiêu biểu cho sự nỗ lực trong cuộc đổi đời, để cuối cùng cũng được ổn định trên đất Hoa Kỳ.

(Huy Phương – Người Việt – Ngày 6 tháng 1 năm 2005)

Trong thời gian làm báo, trong những lần sinh hoạt liên quan đến ngành giáo dục, tôi thấy sự hiện diện của ông. Thời gian sau nầy ông và tôi tham gia trong nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian mới có cơ hội gặp gỡ nhau. Bản tính ông hiền hòa, cởi mở và lạc quan. Dương Tử làm thơ hơi tếu như Tôi Học Làm Bánh Bao, Tôi Làm Cosmetic… nghĩa là công việc nào cũng làm thơ. Trong Hai Lá Thư Từ Mỹ Quốc, đăng nhiều bài thơ thể thất ngôn bát cú, điển hình như:

Bài thơ khi làm Teacher Aid:

“Giáo chức từ đây dứt cháo rồi

Yêu nghề mến trẻ cũng đành thôi!

Tựu trung là cũng do tiền bạc

Kinh tế nhìn chung chữa phục hồi

Bốn tiếng một tuần sao đủ sống?

Đường đi nước bước lại xa xôi!

Ba mươi năm lẻ trong ngành giáo

Nhắc đến trong dạ luống bồi hồi!”

Thời gian sau nầy, sức khỏe rất yếu, không tự lái xe được vì vậy trong những buổi hội ngộ, tiệc tùng, nếu không có ai đưa đón, thiếu bóng dáng ông!

Little Saigon, November 2025

Vương Trùng Dương

(Tâm Đặng chuyển )

28 thg 11, 2025

Lễ Tạ Ơn ở Mỷ - Nguyễn Khanh


Hôm nay ngày Lễ Tạ Ơn ở Hoa Kỳ.
Ngày này chúng ta tạ ơn Trời Đất, tạ ơn cha mẹ, tạ ơn thầy cô và tạ ơn nhau. Tôi sáng thức dậy sẽ làm dấu đọc kinh, trước khi tạ ơn bà lão (cũng là bà sếp) nằm cạnh mình, tạ ơn vợ chồng con đã cho mình mấy đứa cháu, cám ơn mấy đứa cháu đã đem đến cho ông bà niềm vui khi đưa đón các cháu mỗi ngày.
Kế đến là cám ơn các ông bà lão ở nhóm bạn gặp nhau hàng tuần, cám ơn những mẩu chuyện đã kể cho nhau trong năm vừa qua, cám ơn những lời chỉ dẫn về thuốc men, về trồng cây, làm vườn, về nấu ăn, về đi chợ chỗ nào vừa tươi thiệt tươi mà rẻ thiệt rẻ, cảm ơn cả những lời hướng dẫn để chích insulin chữa bệnh tiểu đường sao cho đúng cách, cám ơn lời khuyên phải đeo răng giả sao cho không bị đau cái lợi, có thể gặm được xương gà, xí oắch.
Và tôi cũng sẽ cảm ơn ông Lam Phương, người viết bản nhạc Đêm Tiền Đồn thật hay, giúp tôi nhớ lại những buổi tối ngủ lại ở trường xã ấp, đêm khuya nghe tiếng súng từ xa vọng về, nghe cả tiếng chân của những người lính -không biết của phía bên mình hay phía bên kia- chạy ngay trước hiên nhà, cả đám thầy cô nằm im trong nhà không dám thở.
Ông Lam Phương viết bản nhạc này lúc tất cả chúng ta tuổi chừng hai mươi hoặc ba mươi là cùng, nhưng bản nhạc đi theo tôi suốt 50 năm qua vì có câu phù hợp với mọi hoàn cảnh: “Gặp nhau trong phút này là mừng trong phút này”. Câu này tôi yêu vì gói trọn tình bằng hữu, siết chặt tình đồng môn, và ngợi ca tình thầy trò. Đó là điều trường Sư Phạm Saigon đã gầy dựng cho tất cả chúng ta.

Happy Thanksgiving bà con nhà mình. Cám ơn tất cả quý thầy cô nhà mình. Gặp nhau trong phút này là mừng trong phút này. 

VTM 181_Mùa Thu Lỗi Hẹn_Nguyễn Cang

 

Xướng:


Mùa Thu Lỗi Hẹn

Hiu hắt vườn xưa gọi gió thu
Sớm mai đồi núi phủ sương mù
Hàng cây vàng lá cành xơ xác
Thành phố sương mờ cảnh tịch u
Mây tím hoàng hôn nghe buốt giá
Trời chiều hoàng hạc ngóng trăng lu
Đồi sim mấy độ ta ngồi đợi
Sao nỡ qua đò bỏ bến thu?!!
Nguyễn Cang
Nov. 5, 2025


Họa 1:


Vào thu

Sông buồn man mác nhuộm hơi thu,
Sương phủ không gian, đất tối mù
Khí lạnh giăng đầy, non trắng xóa
Đò chiều thưa thớt, bến âm u.
Hết vương tơ nắng hoàng hôn lịm,
Vừa mở vành cung ánh nguyệt lu.
Về tổ, đàn cò xao xác gọi,
Thuyền ai thơ thẩn đợi trăng thu?
Minh Tâm

Họa 2:

Trăng Thu

Hằng năm mỗi độ cứ vào thu
Ngày ngắn canh thâu tối mịt mù
Đất khách rừng phong màu lá úa
Không gian khoảnh khắc thấy âm u
Tâm tư gởi gắm theo chiều gió
Kỷ niệm phai mờ ảo ảnh lu
Lữ khách bâng khuâng lòng rộn rã
Đêm về lặng lẽ ngắm trăng thu
Hương Lệ Oanh VA
Nov, 6. 2025

Họa 3:
 








Cảnh Thu

Hoa hồng đơn độc giữa mùa thu
Đỏ thắm xóa tan cảnh mịt mù
Phản chiếu nắng chiều cây sáng chói
Lá vàng che lấp cảnh mù u
Rừng cây trơ trọi cành hiu quạnh
Lấp lánh ánh đèn lúc tỏ lu
Vắng bóng đàn chim kêu ríu rít
Đóa hồng chễm chệ đón trăng thu
PTL 

Họa 4:

Dáng Thu Xưa

Ta về phố nhỏ giữa mùa thu
Lối cũ mây ùn gợn xám mù
Cảnh vắng chiều nghiêng đời vội vã
Sân mờ liễu rũ dáng âm u
Màn đêm phả nhẹ làn hơi ấm
Bóng tối vờn quanh ngọn nến lu
Trở gót buồn thương tình phố cổ
Rừng cây tiễn bước rực vàng thu
TQ

Mời Xem :


Hỏi Chuyện Ngày Xưa - Vườn Thơ Mới Xướng Họa Kỳ 180




Cái Đồng Hồ Timex

 

Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không


Tôi nhớ Me tôi thuở thiếu thời
Lúc Người còn sống, tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ Người đưa trước giậu phơi


Hình dáng Mẹ tôi chửa xoá mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè, trước giậu thưa...


Lưu Trọng Lư


Bài thơ này của LTL chắc chắn mọi người đều đã đọc từ những năm Tiểu Học, và ai đọc thì cũng đều cảm thấy buồn trong lòng, dù mình còn mẹ hay không.

Dĩ nhiên, trong lòng chúng ta, ai cũng ôm ấp nhiều kỹ niệm tuyệt vời về mẹ mình, và tôi cũng thế, cũng ôm ấp nhiều kỹ niệm tuyệt vời về mẹ tôi, nhưng cái kỹ niệm làm cho tôi nhớ mãi là chuyện ngày mẹ cho tôi cái đồng hồ Timex khi tôi… thi rớt Trung Học Đệ Nhất Cấp.

Những tháng ngày ở ngưỡng cửa trường Trung Học, nhất là những năm đệ Ngũ, đệ Tứ là những tháng ngày của những thằng con nít bắt đầu biết lột xác lớn lên, chập chững bước vào lứa tuổi dậy thì. Đây là lứa tuổi bắt đầu biết ăn diện, biết tập tểnh hút thuốc lá, uống cà phê, hoặc thậm chí uống bia, tập tểnh làm thơ, viết lách… vân vân. Một trong những chuyện quan trọng ở lứa tuổi này là chuyện ăn diện. Tôi không biết con gái như thế nào, nhưng con trai ở lừa tuổi tôi thì phải quần ống túm, giày Beatles, tóc để dài, lái xe Honda hay Suzuki vi vút… vân vân

Nhà tôi nghèo, cho nên, trong lúc bạn bè cùng lớp, đứa thì có Honda, Suzuki, tôi vẫn đạp chiếc xe đạp cũ mèm với đủ thứ tật xấu như hay xì bánh và trật xên. Nhưng chuyện Honda Suzuki là chuyện nhỏ, chuyện gần hơn, là đứa nào cũng mặc áo Nil France, vãi mỏng tinh, quần Tergan, vãi dày cộm, tay đeo đồng hồ SeiKo chói sáng, vân vân, trong khi tôi chỉ mặc quần áo nội hoá rẻ tiền, và đếch có đồng hồ để đeo… Ha ha ha, đành chịu thôi.

Thua sút thiên hạ là một chuyện chẳng ai thích, nhưng nhà nghèo quá, tiền ăn tiền học hàng tháng còn thiếu lên thiếu xuống, tiền chó đâu cho tôi được hưởng những thứ xa xí phẩm đó. Tôi dù còn nhỏ nhưng cũng biết thân phận, biết tình cảnh khó khăn của gia đình, nên không bao giờ dám xin xỏ bố mẹ này kia. (Có xin xỏ cũng đếch được thì xin xỏ làm gì. Tôi còn đủ trí thông minh và can đãm để nhận ra những chuyện này ngay từ hồi đó.)

Dù tôi nghèo như vậy, không hiểu tại sao, tôi không bao giờ cảm thấy thua sút bạn bè, và đồng thời, bạn bè cũng không bao giờ coi thường tôi. Chúng nó rất quý mến tôi, đối xử với tôi rất chí tình và cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu tại sao. Chúng nó chẳng bao giờ ngần ngại chở tôi đi học hay chia xẻ với tôi những ổ bánh mì thịt, những ly nước mía, những chai xá xị, hoặc lì xì cho tôi vài trăm bạc để tôi có tiền đi chơi vân vân. Có thể nói, giàu nghèo không phải là một vấn đề đối với học sinh trường LaSan Ban Mê Thuột của tôi lúc đó…

Cuối năm Đệ Tứ, sắp sửa thi Trung Học, để khuyến khích thằng con trai, mẹ tôi nói: “Con mà thi đậu, má cho con cái đồng hồ Timex.”

Hồi đó, đồng hồ Timex là loại đồng hồ rẻ tiền so với Seiko hay Buleva này kia, nhưng tôi mừng lắm, vì ít nhất, tôi cũng sẽ có được một cái đồng hồ đeo tay giống như bạn bè. (Nhìn xa xa, thì Seiko với Timex cũng giống nhau thôi… ha ha ha)

Hồi đó, muốn thi TH, phải xuống Nha Trang, mất một tuần lễ nên mẹ cũng ráng dành dụm vài ngàn bạc cho thằng con trai đi thi. Tôi đi thi, bài vỡ làm ngon lành, và tính toán lại, tôi chắc chắn rằng mình sẽ đậu.

Một tháng sau, ở Nha Trang treo bảng kết quả, trường LaSan Ban Mê Thuột gởi một người xuống coi và đem danh sách về. Tên tôi không có trong những người thi đậu. Đối với tôi, trời đã sụp xuống đầu tôi.

Khỏi cần nói, ai cũng biết tôi đã buồn như thế nào. Hồi đó đã có câu, “Đệ Nhất buồn là cái hỏng thi.” Với tôi, chẳng những buồn, mà còn cảm thấy nhục nữa. Buồn tôi có thể chịu được, nhưng nhục thì không bao giờ. Tôi chẳng dám nhìn mặt mẹ tôi, đừng nói gì đến thân phụ. Nhìn thấy người ở xa là tôi đã trốn biệt, khuất mắt người. Tôi đã làm phụ lòng không biết bao nhiêu người. Tôi chẳng đáng sinh ra, chẳng đáng sống. Thật ra, tôi chỉ muốn chết nhưng không chết được.

Nhưng người mẹ. làm như trời sinh ra để thương yêu, tha thứ, và hiểu con cái mình, một buổi chiều nọ, mẹ ngồi xuống bên tôi, dịu dàng vuốt tóc tôi, nói mà như muốn khóc “Con đừng buồn quá con ơi, Học Tài Thi Phận mà con.” Tôi biết mẹ nói thế để cho tôi bớt buồn, nhưng riêng tôi, tôi không thể nào tha thứ cho tôi được. Tôi chính là người phải khóc để cầu xin sự tha thứ, nhưng không khóc được, mẹ lại muốn khóc cho tôi. Đó chính là một lúc mà tôi hiểu được tình mẫu tử nó to lớn như thế nào…

Sau đó không lâu, tôi nhớ mãi, lại một buổi chiều nữa, mẹ đi đâu về không biết, đến ngối bên tôi, mặt mày tươi như hoa nở, đưa cho tôi một chiếc hộp nhỏ có ruy bông màu vàng. Tôi mở ra và nhìn thấy đó là một cái đồng hồ Timex có hộp chỉ ngày. Trong lúc tôi đang sửng sờ, mẹ tôi nhìn tôi âu yếm và hãnh diện nói:

-Má cho con đó.

Tôi ngạc nhiên mừng rở, nhưng ú ớ, nói không ra tiếng:

-Nhưng con thi rớt, sao má lại mua đồng hồ cho con?

Mẹ nhìn tôi, cười rất dịu dàng và âu yếm nói:

-Đậu hay rớt, chuyện đó không quan trọng con ơi. Cái quan trọng là con đã cố gắng hết lòng hết sức mình. Con đừng buồn nữa con trai…


Nói đến đó, nước mắt mẹ trào ra, và ôm tôi mà khóc. Tôi cũng ôm mẹ và hai mẹ con cùng khóc. Hai con người thất thế, cùng nghèo khổ, cùng thua cuộc, ôm nhau khóc trong một trạng huống bi thương nhưng thông hiểu được nhau. Cả hai chúng tôi đều là những kẻ bại trận. Mẹ thì nghèo khổ, tôi thì thi rớt. Chúng tôi đã thua số mạng, thua cuộc đời…

Lúc ấy, tôi nhận ra rằng lòng mẹ thương con rất là to lớn, không giới hạn. Tôi đã thi rớt, mẹ chẳng buồn, chẳng than phiền, chẳng chửi bới, lại tặng cho tôi món quà mà tôi không xứng đáng để đón nhận, trong khi nhà tôi nghèo lắm, cơm ăn chạy từng bữa chưa chắc đã có. Tôi không biết mẹ đào đâu ra tiền để mua cho tôi cái đồng hồ này, dù Timex là thứ đồng hồ rẻ tiền nhất Việt Nam lúc đó.

Nhờ hành động này của mẹ mà suốt cuộc đời tôi, tôi luôn luôn tập tha thứ, tập sống quảng đại—tôi phải “Tập” bởi vì tôi vốn là một con người hẹp hòi, khắc khe. Quan trọng hơn cả, tôi luôn luôn đứng về phía những người nghèo khổ, những kẻ thấp cổ bé miệng, những người bị thiệt thòi, chân lấm tay bùn và cùng đinh trong xã hội. Tôi không thể nào chịu được sự bất công, dù nó đến từ đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Ngày hôm sau, bạn bè trong trường lé mắt khi thấy thằng Nhị đen nghèo khổ đeo được cái đồng hồ mới, dù là thứ đồng hồ rẻ tiền nhất Việt Nam, nhưng mặt cứ vênh lên tới trời… (Chuyện này dễ hiểu, quí vị có thể thông cảm được)

Vài tuần sau, tôi đi học vể và ngạc nhiên khi thấy thân phụ đứng chờ tôi trước nhà, mặt mày tươi rói lên. Đây quả lạ một chuyện lạ. Mà thật, thân phụ nói:

-Con thi đậu Trung Học rồi.

Tôi chưng hửng, ngạc nhiên nói:

-Trường nói con rớt mà?

-Không, chị Ngọc đi coi bảng ở Nha Trang, và chị thấy tên con.

Thì ra, cái thằng khốn nạn mà trường Lasan gởi đi coi bảng, vì một lý do nào đó đã bỏ sót tên tôi. Mấy tháng sau, tôi lấy được chứng chỉ của bằng Trung Học Đệ Nhất Câp.

Đây là một câu chuyện nhỏ của một thằng học sinh con nhà nghèo trường LaSan Ban Mê Thuột. Chuyện tầm thường, chằng hay ho đặc sắc gì, nhưng, nhân ngày Lễ Mẹ, tôi viết để kính dâng hương hồn Mẹ tôi và chia sẻ với anh chị em. Xin cám ơn đã bỏ thì giờ đọc bài này và chúc tất cả mọi người một Ngày Lễ Mẹ vui vẻ, bình an.

Trường Sơn Lê Xuân Nhị
5/10/2020, Ngày Lễ Mẹ

Từ Cảnh chuyển

27 thg 11, 2025

Con Bé Bán Kẹo Bến Xe Củ Chi - Thuyên Huy



Con Bé Bán Kẹo Bến Xe Củ Chi


Chuyện tưởng tượng quá mức của sự tưởng tượng, có thể vô lý nhưng có một người trong chuyện là thật

1.

Con bé chừng độ năm sáu tuổi, cao cở hơn cái sạp cây, thấp chút xíu so với mấy cái hai bên, tóc ngắn búp bê, mặt mài nhìn từ xa trông sáng sủa, quần áo luộm thuộm nhưng lành lặn, cầm trên tay ba bốn bịch bánh tráng kẹo đậu phộng, đi qua đi lại trước sạp, quanh quẩn vậy, không đi xa hơn, miệng cười cười, đưa lên đưa xuống mời, chưa thấy ai mua, giờ này, trời nóng nhưng chưa đến nổi nóng lắm, gần giữa trưa, bến xe đi về ba ngả, ngả về Phú Giáo Bình Dương, ngả kia đi Đức Hòa, Đức Huệ Hậu Nghĩa, ngả lên Tây Ninh, người lên người xuống, người đi người về đông nghẹt, tài xế lơ xe gọi nhau ơi ới. Hai ba chị, tay bưng tay xách giỏ này giỏ kia, đi ngang, nói gì đó với con bé, làm như quen nó lâu lắm rồi, nó đưa bịch kẹo cho, họ cầm lấy, vò đầu, nó nhận tiền, không đếm, mà thật cũng không biết nó biết đêm hay không, mấy chị bỏ đi, nó nhoẻn miệng cười.





Ngồi nhìn nó một hồi lâu, trưa thứ Bảy, con bé vẫn còn đứng đó, cái sạp sau lưng nó, chưa thấy người lớn nào, Thuận lấy làm lạ, giờ này là giờ trưa, ít nhiều gì người ta cũng kiếm cái gì ăn, nhất là ở bến xe, vốn đã không thiếu gì cái để ăn, nhiều đám người chờ xe tụm năm tụm ba dưới bóng mát, nói cười ăn uống gì đó, dĩa cơm tấm trên bàn, mãi mê nhìn con bé, thấy thương thương nó làm sao nên dĩa cơm vẫn chưa đụng tới như mọi khi, thiếm tư Lành, chủ quán e ngại, cứ ngó anh ta hoài, bà chắc lưỡi nói thầm “bộ cơm của ổng bữa nay không ngon sao cà”, mặc dù bận lo tính tiền, lo làm đồ ăn cho khách đi chờ xe không hở tay.

Không lâu sau, có một người đàn bà, trạc cở bốn mươi mấy, tay cầm ba bốn cái bánh ú lớn, đi lại phía sau, ngồi lên cái sạp, lấy khăn quàng cổ lau mặt, nói gì đó, nó hồn nhiên đi vô, trèo lên ngồi kế bên, bà mở bánh, hỏi qua hỏi lại, nó cầm bánh ăn ngon lành, Thuận định hỏi thiếm tư Lành gì đó, nhưng thôi, xong dĩa cơm, như thường ngày, anh cười chào rồi bỏ đi, băng qua bên kia đường, ngay trước cửa văn phòng, hai ba cô giáo quen đi ngang qua cổng, gật đầu chào, Thuận vẫn nhìn con bé, tự dưng thấy lòng mình se thắt buồn nhưng không biết vì sao buồn.

2.

Gần một tháng, từ Đức Tôn Sa Đéc đổi về Củ Chi, chỗ mới người mới, bận việc đủ thứ, tạm ở trong căn nhà nhỏ sau văn phòng, rồi nhờ chị làm chung giới thiệu, nên Thuận mướn được một căn nhà khá tốt của người chị quen, cách văn phòng chừng vài trăm thước, và ăn cơm tháng, thay vì tính bữa, ở cái quán cơm của thiếm tư Lành, hiền hậu, cởi mở ngay góc ngã ba, ngó qua bên kia chỗ làm, cũng tiện, thay cho những ngày ăn chỗ này chỗ kia, theo kiểu “ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”. Nói là cơm tháng nhưng chẳng có tháng nào gọi là tháng, vì công việc Thuận phải đi chỗ này chỗ kia nên có khi hai ba ngày không thấy mặt bữa nào.

*

Quá xế trưa Chủ Nhật, đầu thu, nói là thu cho có đủ bốn mùa, chứ hôm nào cũng chang chang nóng, nhất là ở bến xe, dù vậy bến xe, chuyến về chuyến đi vẫn đông nghẹt người, vẫn ồn ào, vang vang cả một góc trời. Quán bữa nay, tương đối vắng, thiếm tư cũng tạm rãnh tay, ngồi cạnh bàn ăn, nói cười với Thuận nhiều hơn trước, nhất là về con bé ở sạp bán bánh tráng kẹo, và một số trái cây khác như mảng cầu xiêm, vú sữa. Cả hai cùng nhìn ra bên kia đường, con bé ngồi đó, cười nụ cười con nít, thiếm chậm rãi, cho anh biết, con bé là con nuôi của thiếm bán hàng, mồ côi cha mẹ, thiếm này người Bến Kéo, không thấy chồng, mới về đây, ở đâu đó, trên khúc trên, đường đi Hậu Nghĩa, có cái sạp bán hàng này chừng hơn năm nay, cũng khá thân thiện và vui tính, thương con bé lắm, cũng có khi dẫn con bé qua bên quán mua cơm trưa, con bé rất lễ phép, dạ thưa cám ơn luôn miệng.

*

Trưa Chủ Nhật sau đó hơn một tuần, cũng trưa trưa, ăn xong, Thuận đi qua bên kia đường, chỗ con bé và cái sạp kẹo, vẫn là cảnh cũ, bến xe vẫn đông nghẹt người như mọi ngày.

Con bé đứng trước sạp, tay cầm mấy bịch kẹo như những lần anh ta nhìn nó, Thuận đi tới, thấy có người, con bé cười thật tươi “chú mua kẹo đi chú”, anh nhìn bộ dạng mời mọc hồn nhiên của nó, anh thấy càng thương hơn, vừa định hỏi bao nhiêu thì thiếm bán hàng, tự nãy giờ bận đếm mãng cầu trong giỏ tre để sau lưng, quay mặt ra, ngước nhìn lên, cùng lúc hai người buột miệng ngạc nhiên “trời ơi cậu Thuận, trời ơi thiếm Bảy”. Thuận bước vô phía trong, đứng gần bên bà, con bé vẫn tươi cười đi qua đi lại, không cần biết gì. Mọi chuyện từ lâu nay, chắc cũng phải sáu bảy năm, giờ hỏi nhau không biết là bao nhiêu câu, bao nhiêu chuyện, những chuyện cũ, và chuyện Ái Thy, tên con bé.

3.

Giang, Bằng và Thuận cùng học chung trường, cùng lớp nhưng Bằng và Thuận chung lớp, là đôi bạn khá thân, cả hai học khá giỏi, Bằng nhanh nhẩu, nói nhiều còn Thuận thì ít nói hơn, cái gì cũng được, không làm mất lòng ai. Giang, cô bạn gái, nhà ở chợ Bến Kéo, ba mất sớm, sống với má, có tiệm bán tạp hóa nhỏ, ngay căn phố đầu chợ. Bằng nhà ở tại phố tỉnh, ngay ngã ba sau lưng tòa hành chánh, má anh mất năm lên đệ Lục, ba ở vậy, Bằng có người chị gái nhưng không may chị đã mất năm mười hai tuổi, cho nên anh là con một, gia đình khá giả, nhà Bằng có tiệm bán nông cơ cụ trong chợ Long Hoa, có người chú bà con làm quản gia lo chuyện tiệm, thay ba, phụ nhà anh từ đó đến giờ. Thuận nhà ở tận dưới Trãng Bàng, nghèo, ba làm thư ký cho một nhà máy xay lúa, má lo việc nhà, nghèo nhưng chưa đến nổi túng quẩn, sinh Thuận ra muộn, là con một nên ba má anh cũng khá lớn tuổi rồi.

*

Bằng và Thuận, chơi với nhau, không sang hèn giỏi dở, nhà tường nhà liếp, cái gì cũng chia sẻ, vui buồn suốt mấy năm cuối trung học, cả hai có tài văn thơ, bích báo trường năm nào cũng do một tay hai người lo liệu, cho nên cả trường nói thì hơi quá nhưng thầy cô, học trò lớp lớn cô cậu đều biết mặt nhớ tên, trong sân trường ngoài đường phố. Trong mấy cô cùng lớp, thường tụm ba tụm năm, hát hò thơ thẩn thì cả hai Thuận và Bằng đều gần gũi với Giang hơn, cô nàng khá đẹp, đẹp mặn mà đẹp thùy mị.

Bọn họ đi Bến Kéo, nhà Giang hà rầm, má Giang nhớ từng đứa, ngồi trước cửa tiệm tạp hóa riết rồi, cả chợ, không kể bạn hàng, ngay cả người đi chợ cũng quen, nhất là ăn không biết bao nhiêu chén chè đậu trắng bùi bùi ngọt lịm của quán thiếm Bảy sát bên cạnh, cái tiếng “cậu Thuận cậu Bằng”, thiếm góa chồng như má Giang, có cô con gái lớn tuổi hơn Giang, học không khá, bỏ học cuối năm đệ Thất, phụ thiếm rồi mấy năm sau lấy chồng, về quê chồng cũng lâu lắm rồi dưới Đức Huệ, bà cũng nhớ như in.

Nửa năm cuối, năm chót trung học, cả ba cũng năm sáu lần đi xe đò xuống nhà Thuận dưới Trãng Bàng, hôm nào cũng ở chơi tới hơn xế trưa rồi về, dưới này nào là đi lòng vòng chợ quận, đi ăn bánh canh nổi tiếng, đón xe lôi vào Tha La xóm đạo, thương cái nhà thờ nghèo có thật trong bài hát Tha La Xóm Đạo mà họ nhớ từng chữ của Dzũng Chinh. Ba má Thuận thương lắm, tiếng bác tiếng mấy con êm dịu hơn tiếng lúa trổ đòng đòng mùa lên trước gió sớm trên đồng.

*

Chừng không hơn hai tháng nữa, cuối năm, tới mùa thi, Thuận tình cờ gặp cô bạn cùng lớp với Giang ngoài phố chợ đêm, khi lang thang đi mua bánh mì ăn tối, hai người rủ nhau ra bờ sông ngồi ăn chè sâm bổ lượng. Cô nàng cho là anh cũng đã biết, thản nhiên kể chuyện này chuyện nọ của mình và Giang, vui vẻ nói Giang và Bằng thương nhau dữ lắm mà không ai nói ra đâu nhưng bọn họ biết hết từ lâu, rồi hỏi anh một câu chắc nịch “chắc anh Thuận biết rồi, phải hông?”. Cô cười tươi khoan khoái nhìn thiên hạ đi chợ đêm nhưng cô không biết là, Thuận đang chết đứng trong lòng, cũng cười, nhưng cái cười nếu không kịp cắn môi, kềm lòng thì anh đã bật khóc.

Mối tình mới nhen nhúm trong lòng của anh chết một cách ngỡ ngàng sau câu nói của cô bạn gái. Thuận thương Giang từ những ngày đầu năm học cuối, ôm lấy riêng mình, chờ một ngày. Muộn rồi, những đêm chong đèn nhớ người, thuộc tên người hơn thuộc công thức bài toán hình học không gian khó. Hai người chia tay, hẹn gặp lại trong trường, cô nàng đi rồi, Thuận vẫn ngồi đó, đèn phố chợ đêm hình như tối đen trước mặt, con sông hiền chia đôi phố ngủ yên bổng nổi sóng như gió cuồng bão rớt, Thuận thầm khóc.

4.

Cả ba, Giang, Bằng và Thuận đậu Tú Tài Hai cuối mùa thi, xuống Sài Gòn, Giang vào đại học Sư phạm, Bằng vào Phú Thọ, Thuận chúc mừng hai người và một số cô bạn khác, với bữa ăn ở chợ Đũi, rồi chia tay, không cho biết sẽ học gì, chỉ lơ ngơ Văn hay Luật vậy thôi, nhưng lòng mình rối rắm, Thuận cần nơi để tìm quên ngày tháng cũ, tình lỡ rồi nhưng sao cứ ray cứ rứt, lặng lẻ Thuận bỏ lên Đà Lạt vào Chính Trị Kinh Doanh, ở đó Sài Gòn mù xa một chuyện tình, chưa được gọi là mối tình, chỉ mình biết mà người mình thương không biết.

*

Ra trường, Bằng về làm Phó Trưởng ty Công Chánh tỉnh nhà, Giang cùng cô bạn thân, người kể chuyện cho Thuận nghe, một chiều muộn chợ tỉnh, về dạy ở trường trung học quận Gò Dầu. Thuận bỏ Đà Lạt về lại Sài Gòn, vào một trường khác, dù vậy trong mấy năm học qua, anh vẫn không gặp lại bạn bè, âm thầm đi về, lặng lẻ, coi như “biệt vô âm tín”. Không lâu sau đó, Bằng và Giang thành hôn, đám cưới tổ chức trên nhà của Bằng, đủ đám bạn cũ nhưng không có Thuận. Giang không phải làm dâu, đi dạy thì ở nhà trọ chung với cô bạn, dưới Gò Dầu, cuối tuần thứ Bảy, Chủ nhật về Bến Kéo, cô bạn về tỉnh, giống như vợ, cuối tuần thì Bằng về Bến Kéo, ai nấy bà con hàng xóm đều khen lấy khen để, vơ chồng này hạnh phúc quá, nhất là thiếm Bảy, quán chè bên cạnh, luôn miệng với má Giang “chị may mắn, sung sướng quá chị Hai ơi”.

Chừng năm sau, Giang sinh bé gái đầu lòng, xin nghỉ dạy vài tháng lo cho con, đặt tên Ái Thy, con bé tròn trịu, mặt giống mẹ như đúc, ai cũng nói vậy, ông nội chạy lên chạy xuống, trầm trồ suýt soa, bà ngoại cưng như trứng mỏng. Thiếm Bảy thì khỏi nói, bán không lo bán cứ qua bên này, hết nựng tay rồi nựng chân, hai bà thay nhau giành ẳm, vợ chồng cười, cản không nổi.

*

Năm con bé lên hơn một tuổi mấy, may mắn Giang được đổi về trường tỉnh, nên vợ chồng không phải đi về Bên Kéo như trước, mọi chuyện “xuôi chèo mát mái” những tháng ngày sau đó. Sau tết năm đó, ba của Bằng mất, ông bị bệnh ung thư gan, có lẽ do những năm còn trẻ ông uống rượu nhiều quá, vô bệnh viện tỉnh rồi chuyển xuống bệnh viện Chợ Rẫy cũng không cứu được. Người chú quản gia lo tang lễ mọi thứ, đem ông chôn cạnh mộ bà ở cái nghĩa địa, bên bìa ranh ngoại ô phố tỉnh, trong vòng đất của chùa Gò Kén. Tiệm quán trong Long Hoa và nhà cửa, chú tiếp tục việc làm như trước, chú rất ngay thẳng, trong sạch, khiêm tốn, mọi việc từ tiền bạc tới việc làm đều rõ ràng cho nên Bằng ít khi hỏi han chú, trừ khi chú muốn bảo anh cái gì đó.

*

Mùa hè năm con bé Ái Thy lên ba tuổi, một hôm, xế trưa, trời có mây, hơi xam xám, từ tiệm ở Long Hoa, Bằng chở vợ trên xe Honda về nhà Bến Kéo, qua ngã ba Giang Tân, cũng như thường ngày, hai vợ chồng cười cười, nói qua nói lại. Gần tới khúc quanh cua rộng, cách chợ không mấy xa, trời có chút âm u, chiếc xe tải chở gỗ như loại chở thường, hai cây dài, lớn như hai cái ống cống, từ dưới bến đò lên, không biết tại sao, vừa băng ngang đường, tiếng máy rú lên dữ dội rồi lật quẹo ngang, đầu xe một bên, phần kéo gỗ một bên, hai cây gỗ dài hơn mười thước sút dây rớt xuống, cũng là lúc vợ chồng Bằng, xe Honda chạy tương đối lẹ, vừa lên tới, một trong hai cây, càn ủi, mạnh, hất xe Honda tung lên cao, vợ chồng Bằng văng ra, đập vào đầu xe, rồi rớt sâu xuống lề đường bên kia, nằm im, người lái xe vận tải, không biết sống chết, người ngã quặp trên ghế trước, bất động.


Người trong chợ, hai bên đường, chạy túa ra, la hét, người dưới bến cũng ùa lên, tay này tay kia, phụ đở vợ chồng Bằng lên, hai người cũng bất động, máu me khắp người, mắt nhắm nghiền, họ vừa khiêng về phía chợ vừa hô to, kêu má Giang “bà hai ơi bà hai ơi”. Tới trước nhà, má Giang chạy ra trước, thiếm Bảy ẳm con bé theo sau, không biết làm gì hơn, chỉ ôm con mà khóc ngất “trời ơi trời ơi”, xe cứu thương không có, ông Ba xe lam, nhà bên kia đường, lái xe chạy lẹ qua, người phụ nhau đưa vợ chồng Bằng lên, bác hai và hai ba người khác theo lên, chở họ lên bệnh viện tỉnh, bác cứ khóc và khóc.

Dường như định mệnh đã sắp bày, sau hai ngày trong bệnh viện, qua mọi thứ cố gắng đêm ngày, của bác sĩ, vợ chồng Bằng mất. Một lần nữa, ngưới chú quản gia một tay lo liệu tang lễ, vì bác hai, má Giang đờ đẩn, không còn biết gì nữa cả, cứ ôm con bé mà khóc, thiếm Bảy bỏ bán, an ủi, phụ lo cho bà cho con bé, lo mà cũng như bà, thiếm cũng khóc. Gia đình đem vợ chồng Bằng tới chôn cạnh mộ ba má Bằng ở cái nghĩa địa ngoài chùa Gò Kén.

*

Tội nghiệp con bé, không đòi không khóc, cứ vô tư với ngoại với thiếm Bảy, hai người ẳm trên tay mà lòng đau quặn thắt. Vừa thương nhớ con vừa tội tình cho cháu, bác hai trở nên ngớ ngẩn, có khi lờ đờ, lúc cười lúc khóc, chỉ ra sân nhìn trời cao rồi lẩm nhẫm lung tung, bỏ ăn bỏ uống vài ngày sau đám tang, rồi tâm trí bất thường nặng thêm, thường bỏ đi lang thang trên đường, có khi đi không biết đường về, người ta phải dắt lại nhà, nói năng lảm nhảm hơn. Thiếm Bảy ẳm con bé theo, đưa bà lên bệnh viện, sau nhiều lần đi về, bác sĩ kết luận, bà đã bị chấn động tâm lý quá nặng, nên đã bị bệnh tâm thần hay gọn hơn là “điên”.

6.

Dưỡng trí viện Biên Hòa, sắp trưa, nắng âm ấm trong sân, vắng người, Thuận đi theo cô y tá tới một cái băng ghế cây dài, đặt dưới gốc cây phượng già rợp bóng, ngừng lại cách nơi đó một khoảng không xa bao nhiêu, cô chỉ người đàn bà, tóc lâm râm bạc, quần áo thẳng thốn, đang nhìn lên trời, gật gù nói lảm nhảm. Thuận cám ơn, cô cho biết nếu cần gì cứ gọi cô, chào anh ta rồi quay lưng bỏ đi.

Thuận đi tới gần bà, đúng là bác hai, má của Giang, anh cúi đầu chào, bà không nhìn cứ tiếp tục nói, tiếng mất tiếng còn “con tôi, cháu tôi, con tôi, cháu tôi sao không có đứa nào vậy bây”, nói mà cười cười, hai bàn tay vẫy vẫy, đôi mắt buồn u uẩn, Thuận lên tiếng gọi “bác hai, con thằng Thuận đây”, bà ngồi xuống nhìn anh ta trân trân “thôi tao hổng ăn cơm, tao nói tao hổng đói mà”.

Đinh là sẽ ở lâu nhưng cũng đành vì không làm sao khác hơn được nữa, Thuận, một lần nữa cúi đầu chào bà, bà cười như đã cười như lúc nãy, anh lùi bước, bất chợt nảo lòng, mắt cây xé, anh quay đi trở lại văn phòng cũng vừa lúc cô y tá khi nãy đi tới, nhin anh lắc đầu thông cảm “tới giờ cho bà uống thuốc”, Thuận cám ơn rồi bỏ đi, nhưng cứ nhìn lại, bóng cô y tá dắt tay bà, xa dần rồi xa dần trong tầm mắt, anh lắc đầu, thở dài. Ra khỏi cổng Dưỡng trí viện rồi, anh vẫn đứng ngoài rào nhìn lại.

7.

Biết rành Thuận là ai, đang làm việc gì nên thiếm Bảy, ngồi nói chuyện, tuy cứ do dự, đắn đo, suy đi nghĩ lại, thêm một phần là cô con gái thiếm cũng đã dọn về ở ngã ba Củ Chi, ở chung với thiếm Bảy, tuy nhiên vợ chồng họ vẫn đời làm thuê làm mướn, nghèo nhưng tạm đủ ăn, căn nhà mà thiếm đang ở miếng tôn vách ván, miếng hở miếng lành, phần khác có thiếm tư Lành, chủ quán cơm, nói thêm nói vô, tại bữa cơm trưa ở quán, thiếm Bảy buồn buồn, dù sao ba năm rồi nuôi nấng con bé cũng mến tay mến chân, vắng nó thương đứt ruột nhưng thôi cũng đành, ở với thiếm không khá hơn, chẳng lẽ đời nó cứ như vậy sao, về với Thuận, có ông có bà, đi học đi hành, thì còn gì hơn.

Cuối cùng, thiếm gật đầu bằng lòng để nó về với Thuận mà mắt đỏ hoe, bùi ngùi ngấn lệ. Chuyện xong rồi, thiếm đi qua bên đường xa rồi, Thuận nhìn theo, tới sạp trái cây, thiếm ôm con bé vào lòng, kêu nó lên ngồi kế bên, nói gì với nó, một hồi lâu, không biết có hiểu gì không, nó chỉ cười, Thuận bổng thấy trong lòng đau nhói.

8.

Con bé Ái Thy, tung tăng nắm tay Thuận, có ông bà nội nuôi theo sau, tay cầm cái cặp da mới tinh, quần thơm áo mới, nói cười luôn miệng, lắc tay Thuận chỉ cái này cái kia hai bên đường, trắng bông hoa Gạo, khoe màu với những cánh phượng hồng tươi mùa hạ trước sân trường, “một ba ơi, hai ba ơi”.



Hôm nay ngày tựu trường, sân trường tiểu học quận rộn rã tiếng người lớn tiếng trẻ con và cũng hôm nay Ái Thy đi học.



Thuyên Huy
Sắp vào hạ 2025

Chiếc xe hòm vào xã Hòa Thịnh (Diển Đàn CLB,Văn Đoàn Độc Lập VN )

 Lê Thiếu Nhơn

Tháng 3/1945, Văn Cao (1923-1995) viết bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc miêu tả một bối cảnh tang tóc của Hà Nội: “Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo/ Dặt dìu cung bậc âm dương/ Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch/ Đầm đìa rả rích phương Đông…/ Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác/ Đi vào ngõ khói công yên”.

80 năm trôi đi, bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc bỗng dưng lại khiến mình nhói lòng, khi nhìn chiếc xe hòm vào xã Hòa Thịnh. Trận đại hồng thủy, gồm một cơn mưa dài và mấy đợt xả lũ, đã nhấn chìm vùng đất phía đông tỉnh Đắk Lắk trong biển nước.

Thiệt hại về tài sản thì đã quá rõ. Còn thiệt hại về nhân mạng thì sao? Các con số thống kê chính thống vẫn khá cầm chừng, có lẽ chính quyền đang ưu tiên mọi tâm sức cho công tác cứu trợ. Tỉnh Đắk Lắk tạm dừng con số thống kê đến trưa 20/11 với 11 người chết và 4 người mất tích “các trường hợp tử vong do sạt lở đất, lật thuyền và bị lũ cuốn trôi được ghi nhận tại các xã Xuân Phước, Tuy An Bắc, Tuy An Tây, Hòa Xuân, Hòa Mỹ và phường Sông Cầu”.

Nghĩa là chưa có con số thống kê cho xã Hòa Thịnh, một khu vực ngập nặng nhất và ngập lâu nhất ở miền hạ du sông Ba. Giữa muôn trùng vây của lũ lụt, thân phận con người kháng cự làm sao với đói và rét?

Đến chiều 22/11, nước đã rút ở phần lớn địa bàn xã Hòa Thịnh. Và hình ảnh chiếc xe hòm vào xã Hòa Thịnh, đã xuất hiện. Mình rất mong đây là ảnh đểu, nhưng nhiều thông tin khác đã bổ sung cho tính chân thật của nó.

Nhóm thiện nguyện Đom đóm Phú Yên ngày 21/11 chia sẻ: “2h chiều nay, sau cuộc gọi của lãnh đạo xã, anh em Đom đóm và chú Ngọc tránh đủ đường lũ, chia cắt rồi kẹt xe chở ngay 4 quan tài đến để kịp cho bà con bị mất sau lũ có an táng… 4h chiều, cuộc gọi tiếp theo, nghe xong nghẹn ngào, xót xa, tim như bóp nghẹn… Nguyện mong, con số người mất xin hãy dừng lại, tội bà con quá”.

Báo Tuổi Trẻ, với bài “Những hình ảnh nhói lòng, tang thương từ tâm lũ Hòa Thịnh” phản ánh 2 chi tiết, được cập nhật lúc 15h35’ ngày 22/11.

Chi tiết 1: Ông Lâm Sư Thắng ngồi lặng trước hiên nhà chờ quan tài để chôn cha mình là ông Lâm Đạo Sanh. Ông Thắng kể lũ rút, ông về nhà cha mẹ thì phát hiện ông Sanh bị tủ đè, chết chìm dưới nước. “Tôi nghe mẹ nói ngày 20-11 nước rút tới bụng, cha bước xuống thì bị tủ ngã đè. Giờ chờ quan tài mà mãi chẳng thấy. Không biết có quan tài để chôn không, dịch vụ mai táng ở đây họ làm không xuể”, ông Thắng nói.

Chi tiết 2: “Anh Nguyễn Văn Tiến, người làm dịch vụ mai táng ở xã Hòa Thịnh, tất bật tẩm liệm cho cha mẹ ông Thắng. Danh sách những người mất trong trận lũ này, điện thoại nhờ giúp còn dài. Anh Tiến liên tục nghe điện thoại, giọng mệt mỏi: “Gia đình tôi làm dịch vụ mai táng mấy chục năm ở Hòa Thịnh, nhưng chưa khi nào thấy thảm kịch như lần này. Hôm qua làm 13 đám, hôm nay đến giờ này 9 đám. Chẳng biết còn nữa không, mong là dừng, quá khổ”’.

Vậy thì, số người thiệt mạng ở xã Hòa Thịnh không thể là 1 hoặc 2, hoặc “không đúng như tin đồn”. Ôi, chiếc xe hòm vào xã Hòa Thịnh, buốt giá vạn lần Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc về nỗi đau thương “tiếng xe ma chở vội một đêm gầy”.

Xã Hòa Thịnh là một nơi có truyền thống cách mạng đáng tự hào. Bài ca Phú Yên của nhạc sĩ Văn Chừng (1938-2006) một thời là “tỉnh ca” Phú Yên, đã nhắc “Qua bao năm gian lao quân dân chung sức chung lòng/ Bừng lên ánh đuốc thắp sáng những đêm đồng khởi từ Hòa Thịnh”.


Xem Thêm :Cô bé trên mái nhà sàn