31 thg 10, 2025

1 Bài Từ FB Sư Pham Saigon Xưa (FB. Trần Ngọc Tình K.11 -SPSG )


Vậy hôm nay là kỷ niệm ba năm ngày thành lập nhóm .

Chân thành chúc mừng nhóm mình nhé
Và gởi đến bạn một câu chuyện ngô nghê
Sài Gòn có cây Bồ đề , chú bé nghịch ngợm dùng con dao hướng đạo tí toáy khắc một chữ T tên mình vào thân cây , chú khắc thêm một chữ T nữa cạnh chữ đầu , sau cùng chú gạch một vòng tròn vụng về hình trái tim bao quanh . Chú khoái chí rủ cô bạn oanh vũ nhỏ xem tác phẩm đầu đời của mình , thế mà cô bạn lại giận , mách chị huynh trưởng , chị xem rồi mỉm cười , nhưng mà tang chứng vật chứng rành rành thế này ! Chú bé sớm mê nghề chạm khắc phải chịu phạt quỳ thời gian tàn một cây nhang , miệng thì thầm tụng kinh sám hối . Ngôi chùa có cây Bồ đề kỷ niệm ấy, cây Bồ đề giờ đã già theo thời gian , thân cây bạc màu xen lẫn rêu xanh . Dấu khắc năm nào vẫn còn dù có phần mờ nhạt , chỉ còn vết một chữ T già . Những chữ T đã lồng vào nhau rồi hay vì một chữ T đã ra đi ..
Dường như là vẫn thế , em không trở lại .
Và mãi là như thế , anh không trẻ lại ..
( Trần Lê Quỳnh - Cô gái đến tư hôm qua - )
Sài Gòn của anh còn có ngôi trường Sư Phạm mà anh rất quý yêu .
Những dãy hành lang dài theo lớp , những băng ghế đá đã bao năm nằm im lặng trộm nghe chuyện buồn vui của cô cậu giáo sinh , câu chuyện tình tự .. Chỉ có hai đứa mình thôi nhé . Cảm thông nỗi lòng thầy cô giáo đang thơ thẩn lang thang thăm lại trường xưa , nhớ tìm kỷ niệm . Đến những cơn mưa chiều trơn ướt lối đường , và nụ cười làm ấm lại chút thiên lương tưởng đã lụn tàn mà ai đó đã nhận từ một ai kia .
Mái trường của anh giờ không còn nữa .
Khi ngôi trường chỉ còn tầng trệt cùng chiếc cầu thang và tầng một thì đã tan hoang . Anh dừng xe ngỡ ngàng trước cổng trường .Tần ngần , anh hỏi anh bảo vệ cho anh được vào thăm bên trong trường :
- Anh ơi , không phải tôi xin vào kiếm nhặt sắt vụn hay đồ ve chai , anh cho tôi vào thăm căn phòng tôi đã ngồi học năm xưa . Đó , ở đó đó , chắc đây là lần cuối cùng rồi, anh vui lòng nhé
Anh bảo vệ ngần ngừ rồi bằng lòng :
- Công trình đang đập phá hạ bỏ , ông nhớ chú ý coi chừng tường đổ vào người nghe ..
Anh đến lớp Nhị năm của anh , bước qua đống gạch vỡ ngổn ngang và vào hẳn trong lớp . Không còn bàn ghế, vữa gạch tung tóe khắp nơi , đến chỗ anh ngồi học cũ , chiếc cầu thang lên tầng trên vẫn còn . Thoáng một bóng dáng ai dừng bước trên bậc lối đi, nhìn xuống anh , mỉm miệng cười chào rồi lại thoăn thoắt bước tiếp , gót chân người ấy ẩn hiện theo đôi guốc trắng .. Chỉ là chút dư ảnh , chút dư ảnh của câu chuyện đã qua , chợt hiện về .
Ngôi trường đang hấp hối của anh ..
Ngôi trường kỷ niệm của anh giờ đây nằm trên bàn : Một mẩu gạch nơi trước đây là lớp Nhị năm Và một mẩu gạch nơi từng là chiếc cầu thang cũ .

Ảnh các bạn nữ SPSG K.2 họp mặt 1/1/2012 tại Trường ĐH.Saigon (trường Bác Ái cũ ),đối diện SPSG cũ

Phố Xưa Về Lại - Thuyên Huy


 MỜI XEM LẠI :



3 bài thơ tình Á Đông.- Pháp Hoan Dịch

 


3 bài thơ tình Á Đông.

Pháp Hoan dịch từ bản dịch tiếng Anh, có tham thảo bản Hoa ngữ.
_________________________
EM YÊU DẤU
Mang Ke (芒克; Mang Khắc)
Nếu em trở về với dáng hình nguyên thuỷ,
là một nhúm đất nâu,
anh vẫn muốn giống như thuở ban đầu
được kề lên bộ ngực em bé nhỏ,
anh muốn hóa thành ánh dương rực rỡ
phủ lên em trong da thịt mặt trời,
và sẵn sàng tan chảy cả cuộc đời
để trở thành nhất thể.
Nếu em hoá thành đất đen, anh sẽ
từ bỏ dáng hình mình
để trở thành nguồn nước mát mùa xuân,
và anh muốn được hoà tan, tất cả
và với mỗi dòng cảm xúc anh có
sẽ thấm vào cùng thân thể của em.
*
Tình Cầm Sắt
Guan Daosheng (管道昇; Quản Đạo Thăng)
Anh và em
Ta yêu nhau thắm thiết
Tình cháy lên cuồng nhiệt
Như ngọn lửa hồng
Lửa sẽ nung đất
Có dáng hình em
Và dáng hình anh
Ta đặt chúng bên nhau
Rồi đập làm trăm mảnh
Trộn lẫn với nước
Và lần nữa đúc ra dáng hình em
Và dáng hình anh
Anh sẽ ở trong em
Và em ở trong anh
Sống: đắp chung một tấm chăn
Chết: cùng chia một manh chiếu.
*
CUỘC ĐỜI ĐÓ
Tsangyang Gyatso (倉央嘉措; Thương Ương Gia Thố)
Khoảnh khắc đó, ta giương cờ phong mã, chẳng phải vì nguyện cầu, mà chỉ để ngóng trông người xuất hiện.
Ngày hôm đó, ta dựng ngọn tháp đá, chẳng phải vì tu đức, mà chỉ để ném động cõi lòng người.
Đêm hôm đó, ta nghe tiếng kinh thời, chẳng phải vì chứng ngộ, mà chỉ để lần theo làn hương cũ.
Tuần trăng đó, ta xoay bánh xe pháp, chẳng phải vì siêu độ, mà chỉ để chạm đến ngón tay người.
Năm tháng đó, ta phủ phục trên đường, chẳng phải vì hành hương, mà chỉ để được cận kề hơi ấm.
Cuộc đời đó, ta băng sông vượt núi, chẳng phải vì hoá kiếp, mà chỉ để thấy lại khuôn mặt người.
=============
* Đặt thỉnh 4 ấn phẩm:
1) 100 bài Hoà Ca-Haiku-Hán Thi (nhiều tác giả)
2) 100 bài Haiku của Matsuo Basho
3) Trời Cao Gió Lộng (100 bài thơ của thiền sư Ryokan Taigu)
4) Tám Vạn Bốn Nghìn Cây (100 bài Haiku của Pháp Hoan)
cùng 2 tập thơ qua comment, messenger hoặc qua email: conglapmai@gmail.com

Tranh của Đinh Trường Chinh

30 thg 10, 2025

29 thg 10, 2025

LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA Tổng Luận (Diển Đàn Khai Phóng )

 

Tác giả: Itô Jinsai

Biên dịch: Nguyễn Sơn Hùng

***

I. Lai lịch (của sách Luận Ngữ)

Hình Bỉnh(932~1010) đời Tống viết:“Theo Văn Nghệ Chí của Hán Thư, Luận Ngữ là:1) Nội dung hỏi và trả lời giữa Khổng tử và các đệ tử (học trò của ông) hoặc các người đương thời; 2) Lời thảo luận giữa các đệ tử lọt vào tai của Khổng tử. Khi Khổng tử còn tại thế, các đệ tử mỗi người tự ghi chép lại nhưng sau khi phu tử qua đời, các môn nhân tập hợp các nội dung ghi chép nói trên và biên tập lại. Do đó, họ đặt tựa đề là “Luận Ngữ””.

Đến đời Hán, nội dung còn lưu truyền lại chia thành 3 học phái. “Lỗ Luận Ngữ” là nội dung được truyền thừa ở nước Lỗ. Thứ tự các thiên của sách Luận Ngữ được phổ biến hiện nay là căn cứ vào sách Lỗ Luận Ngữ này.

“Tề Luận Ngữ” là sách được lưu truyền lại ở nước Tề. Sách này còn có thêm 2 thiên: thiên Môn Vương và thiên Trí Đạo, tổng cộng 22 thiên. Ngay cả trong 20 thiên có thiên, có tiết mà sách Lỗ Luận Ngữ không có.

“Cổ Luận Ngữ” là sách được phát hiện trong vách nhà cũ của Khổng tử gồm có 21 thiên.Ngoài việc trùng lặp của thiên Tử Trương, thứ tự các thiên cũng khác với sách Lỗ Luận Ngữ và sách Tề Luận Ngữ.


Khổng An Quốc(cháu đời thứ 10 của Khổng tử, không rõ năm sinh năm mất,Tiền Hán) chú thích và Mã Dung(79~166) đời Hậu Hán cũng có chú thích.


Trương Vũ張禹(?~TCN 5), một mặt học Lỗ Luận Ngữ từ Hạ Hầu Kiến, một mặt học Tề Luận Ngữ từ Khang Sinh và Vương Cát, chọn lựa những nội dung hay của 2 sách này để biên soạn và đặt tên là “Trương Hầu Luận”.


Bao Hàm包咸(TCN 6~ 65) và Chu thị(khác với Chu Hy đời Tống) đời Hậu Hán mỗi người cú đọc một cách (cắt thành câu để hiểu nghĩa, Hán Văn ngày xưa không có dấu phẩy, dấu chấm câu) và lập định bản (定本, phiên bản xác thực) (xem xét, so sánh các phiên bản khác nhau, tu bổ các chỗ sai hoặc thiếu để lập phiên bản hợp lý và đúng hơn), kế đến sách được dùng làm sách giáo khoa cho các quan chức học hoặc học để ra làm quan (quan học官学).

Trịnh Huyền鄭玄(127~200. Hậu Hán) sử dụng sách Lỗ Luận Ngữ, sách Trương Hầu Luận và các sách giáo khoa của Bao thị và Chu thị đối chiếu với sách Tề Luận Ngữ và sách Cổ Luận Ngữ để viết chú thích.

Quan Thượng Thư của Sử Bộ (bộ Nội Vụ) tên Hà Yến何晏(?~249) vừa tập hợp các giải thích của các học giả vừa thêm giải thích của mình để viết sách Luận Ngữ Tập Giải.Ông dâng sách lên cho Ngụy hoàng đế (Tề vương của nước Ngụy) trong khoảng các năm có niên hiệu Chính Thủy (240~248).Sách này được thịnh hành và người đời sử dụng.

Duy Trinh (tức Jinsai) nghĩ rằng, theo Trịnh Huyền, “Luận Ngữ là nội dung do các đệ tử của Khổng tử như Trọng Cung (tức Nhiễm Ung, Ung của thiên 6 Ung Dã), Tử Du, Tử Hạ tuyển định”.Theo Trình tử:“Sách Luận Ngữ là do tay của các môn nhân của Hữu tử và Tăng tử làm thành nên sách này chỉ gọi 2 nhân vật này (trong các đệ tử của Khổng tử) bằng từ “tử”, với ý nghĩa là tiên sinh.” Theo tôi nghĩ (tức Jinsai), nếu chỉ cho rằng các người này chọn lời nói của Khổng tử thì đúng nhưng đối với lời của chư tử (nghĩa là các đệ tử của Khổng tử) thì không thể khẳng định như vậy. Sách Luận Ngữ vốn không phải do 1 người ghi chép và thời điểm sách hình thành cũng không phải cùng vào 1 thời đại. Lý do của ý tưởng này là bởi vì ngoài Hữu tử và Tăng tử, trong sách cũng còn có gọi Mẫn tử, Nhiễm tử bằng “tử”. Ngoài ra, trong các lời nói của chư tử (các đệ tử của Khổng tử), số lời nói của Tăng tử là nhiều nhất, kế đến là của Tử Cống và của Tử Hạ. Ở trong thiên Học Nhi, ghi chép lời của Hữu tử đến 3 lần. Nếu kết hợp với thiên Tử Trương ghi chép nhiều lời của Tử Trương thì tất cả các lời của Khổng tử là do Tử Du, Tử Hạ viết nhưng lời của các chư tử (các đệ tử của Khổng tử) chúng ta hiểu là do học trò của mỗi người này ghi chép lại. Tóm lại những người phụ trách biên tập sách Luận Ngữ là những người của Tử Du và Tử Hạ. Việc này đại thể giống như việc Tăng Củng曽鞏nói người ghi chép Nghiêu Điển, Thuấn Điển của sách Thượng Thư là bạn bè của Cao Dao皋陶, Quỳ夔và Long竜(1).

Số người giảng giải hoặc chú thích Luận Ngữ từ đời Tống đến nay đã hơn vài trăm người. Tuy nhiên có nhiều người tự đưa ra kiến giải của mình, trong đó có nội dung lẫn lộn với học thuyết của Phật học và Đạo giáo, không thể tin cậy được. Nhưng các giải thích của các học giả đời Hán vì còn gần gũi với cổ đại nên có mặt còn tiếp nhận và truyền đạt được chân ý của Khổng tử (Ogyu Sorai cũng có nhận xét này). Do đó, sách Luận Ngữ Cổ Nghĩa này phần lớn dừng lại ở phạm vi của sách Luận Ngữ Chú Sơ(của Hình Bỉnh). Đối với giải thích của các học giả khác chỉ chọn lọc những điểm ưu tú. Đối với ngữ nghĩa (nghĩa của chữ) và huyết mạch (chính thống) của Khổng học, tôi đã không nghĩ đến thân phận mà thêm kiến giải riêng của mình (nên hiểu là cách nói khiêm tốn).

Duy Trinh lại nói, Luận Ngữ gồm 20 thiên, và người ta phân chia thành 2 quyển thượng và hạ để truyền bá. Việc phân chia này giống như việc phân chia thành chính tập (phần nội dung chủ yếu) và tục tập (phần nội dung tiếp theo để bổ sung) của các văn tập đời sau. Người biên tập sách Luận Ngữ trước hết thu thập, ghi chép lại 10 thiên đầu để dạy và học tập. Sau đó lại biên tập thêm 10 thiên tiếp theo để bổ sung những nội dung mà tập trước thiếu sót. Ngày nay người ta hợp chung cả 2, thành 20 thiên.

Lý do như sau. Theo đặc điểm của thiên 10 Hương Đảng, thiên này phải ở vị trí cuối cùng, có nghĩa là ở vị trí của thiên 20 của sách nhưng hiện tại thiên này ở vị trí chính giữa của sách. Nội dung của 10 thiên đầu cũng đủ cho 1 quyển sách. Khi xem xét kỹ sách Luận Ngữ, thiên thuật lại chí hướng của Tăng Điển (tức Tăng Tích) (Bài 25 của thiên 11 Tiên Tiến), thiên Tử Lộ hỏi về chính danh (tức Bài 3 thiên 13 Tử Lộ), thiên Quý Thị thảo phạt (tức Bài 1 thiên 16 Quý Thị), là những thiên rất dài.

Ngoài ra, các nội dung như“lục ngôn lục tế”(6 thứ đức và 6 điều che lấp) (Bài 8 thiên 17 Dương Hóa), “quân tử hữu cửu tư” (9 điều luôn luôn cần để ý đến của người quân tử) (Bài 10 thiên 16 Quý Thị), “quân tử hữu tam giới” (3 điều cảnh giới của người quân tử) (Bài7 thiên 16 Quý Thị) đều không thấy ở trong phần đầu.Lý luận và thể văn có điểm không giống với phần đầu. Từ các điều này có thể hiểu 10 thiên của phần sau là bổ sung nội dung thiếu sót của phần đầu.

II. Cương lĩnh

(Phương pháp hữu ích khi đọc Luận Ngữ và Mạnh Tử) (2)

  1. Đề xướng của Trình tử

Trình tử (tức Trình Di) nói “Đọc hết sách Luận Ngữ có người thản nhiên.Có người đọc xong thì vui mừng hiểu được 1, 2 câu trong sách.Có người trở nên thích sách này khi đọc xong.Có người vừa khi đọc hết thì vui điên lên, tự mình tay múa, chân nhảy mà không hay biết.”

Trình tử lại nói “Người học đạo làm người cần phải lấy 2 sách Luận Ngữ và Mạnh Tử làm căn bản. Khi đọc được 2 sách này thì không cần học lục kinh (tức 6 kinh sách: kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Nhạc, kinh Dịch và kinh Xuân Thu) cũng tự nhiên hiểu (ý nói nội dung 2 sách bao gồm cả nội dung hoặc các nội dung chủ yếu của lục kinh) (Ogyu Sorai phê phán chủ trương này, cho rằng đây là 1 tệ hại quan trọng của Tống Nho vì nội dung đạo Khổng, tức đạo tiên vương nằm trong 6 kinh sách này đặc biệt là Thi Thư Lễ Nhạc) Người đọc sách nên lưu tâm suy nghĩ đến chủ ý của thánh nhân khi sáng tạo kinh sách, những điểm thánh nhân đã khổ tâm, các lý do mà thánh nhân đã đạt thành thánh nhân, kế đến các lý do mà bản thân mình chưa đạt đến mức độ của thánh nhân, các lý do mà bản thân mình chưa có thể thông hiểu, và truy tìm ý nghĩa của từng câu một. Ban ngày thì đọc thành tiếng, hưởng nếm hương vị sâu xa của kinh sách, ban đêm phản tĩnh để lòng yên tĩnh lắng xuống, thanh thản tự nhiên để lại những điểm còn nghi ngờ chưa sáng tỏ. Nếu như người đọc sách biết có tư thế thận trọng như vậy có lẽ sẽ hiểu được chủ ý của thánh nhân và các điều đã nói ở trên.”

Trình tử lại nói “Người học nên xem những câu hỏi của các đệ tử trong sách như câu hỏi của chính mình và cần phải nghe nội dung trả lời của thánh nhân một cách thân thiện bằng tai của mình ở hiện tại, nếu làm như vậy có lẽ tự nhiên sẽ hiểu được ý muốn truyền đạt của thánh nhân. Nếu như Khổng tử và Mạnh tử dù có sống lại vào thời nay thì cũng giảng dạy nội dung như đã được trả lời ở trong sách, không hề khác. Nếu như cứ lập đi lập lại việc tìm hiểu và hưởng nếm hương vị các ý nghĩa trong sách này (tức Luận Ngữ), tự nhiên sẽ thấm nhuần và tính chất hậu thiên (tức tính chất có được do học hỏi, khác với tính chất bẩm sinh trời cho) có lẽ sẽ được hình thành.”

Trình tử lại nói “Nếu như đọc sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thì cần phải đọc cho thật kỹ, nhuần nhuyễn và nghiền ngẫm ý nghĩa của sách. Cần phải xem lời của Khổng tử thiết thực đối với bản thân chứ không phải đơn thuần chỉ là nội dung của trường hợp xảy ra trong sách. Nếu đọc kỹ 2 quyển sách này và có thể xem như thiết thực đối với bản thân thì cũng đủ để sống hết cả cuộc đời.”

  • Giải thích đặc điểm Luận Ngữ của Jinsai

Jinsai nghĩ rằng sách Luận Ngữ đưa ra các nguyên tắc căn bản của đạo học (tức Khổng học) cho muôn đời. Lời của sách rất chính đáng thích hợp và nhất quán từ bắt đầu cho đến cuối, 1 chữ cũng không dư và cũng không thể thiếu đi 1 chữ.

Luận Ngữ bao gồm hết cả nội dung của đạo, và giúp cho việc học đạt được đỉnh cao nhất. Giống như trời đất to rộng vô biên mà con người ở trong đó không thể giác ngộ sự to rộng của trời đất. Đạo cũng như trời đất, muôn đời không thay đổi và chắc chắn lan rộng đến mọi nơi trên thế giới. Đạo thật là vĩ đại làm sao!

Khi thuật lại nội dung của đạo, thánh nhân lấynhân仁làm gốc rễ, trí智làm trọng yếu, lấy nghĩa 義 làm bổn phận, sứ mệnh, và lấy lễ làm trợ lực.

Khi giảng dạy để khuyên bảo người khác, thánh nhân giảng “Hãy học văn文(kinh sách) cho thậtrộng, và thực hành điều đã học theo lễ.” (bác học ư văn; ước chi dĩ lễ) (Bài 25 thiên 6 Ung Dã) hoặc “Giảng dạy 4 điều: văn (kinh sách), hành (thực hành), trung (tận tâm, hết sức), tín (sự tin cậy, tín nhiệm)” (Tử dĩ tứ giáo:văn, hạnh, trung, tín)” (Bài 24 thiên 7 Thuật Nhi). Tổng kết lại, Khổng tử nói “Đạo của ta chỉ có một lẽ mà thông suốt cả”(Ngô đạo nhất dĩ quán chi) (Bài 15 thiên 4 Lý Nhân).Mục tiêu của thánh nhân chỉ có bao nhiêu đó, dù sao này có thánh nhân nào khác xuất hiện cũng không thể giảng dạy nội dung ra ngoài nội dung nói trên.

Các Nho gia đời Tống khi giảng dạy Luận Ngữ xem nhân nghĩa là lý理 (lý lẽ), họ không hiểu nhân nghĩa仁義chỉ là 1 tên gọi của đức徳, và họ định nghĩa trung tín忠信là tác dụng(dụng用) và không nghĩ trung tín là 1 tác dụng (hiệu quả) rất quan trọng. Bi thảm hơn nữa là có người cho rằng sách Luận Ngữ không đủ nên họ vay mượn từ Phật học hoặc học thuyết của đạo giáo (tức Lão Trang) để làm căn cứ cho chủ trương của họ(ý nói Tống Nho, tiêu biểu là Chu Hy). Rất hiếm người không phải là tội nhân đối với Khổng học.

  • Jinsai đánh giá Luận Ngữ: sách chí cực tối thượng đứng đầu trong vũ trụ

Duy Trinh (tức Jinsai) lại nói “Trước thời Khổng tử, pháp chế giáo hóa (chế độ và phương pháp giáo dục) đã được xây dựng khá đầy đủ nhưng học thuyết chưa được phát triển nên đạo đức chưa được mọi người ý thức đầy đủ.

Sau thời Khổng tử, đạo đức và học vấn mới được phát triển đầy đủ.Nhờ đó, các học giả ngàn đời sau mới biết thực tiễn theo nhân nghĩa tất cả đều lấy nghĩa lý để tách rời ra khỏi học thuyết bói toán và quỷ thần. Do đó có thể nói nhờ phu tử mà việc học khai tịch (mở) ra một thời đại mới.

Mạnh tử đã trích dẫn lời của Tể Ngã, Tử Cống và Hữu Nhược để nói “(Phu tử) tài giỏi ưu việt hơn vua Nghiêu, vua Thuấn rất xa (Bài 2 chương 3 Công Tôn Sửu thượng, Mạnh Tử) và “Từ lúc nhân loại xuất hiện không có ai có nhân cách phong phú như Khổng tử”(cùng trong bài trên). Các đệ tử này tiếp xúc gần gũi với phu tử nên thực tế biết được sự ưu việt của ông hơn người khác và đã diễn tả như trên. Đó là lý do mà tôi quả quyết sách Luận Ngữ là sách chí cực tối thượng đứng đầu trong vũ trụ.

Những người đời sau từ thời Hán, thời Đường tất cả đều biết lục kinh quý trọng nhưng lại không biết sách Luận Ngữ quý trọng hơn và nội dung cao thâm vượt trội hẳn lục kinh.

Có người bắt đầu bằng kinh Dịch, thiên Hồng Phạm của kinh Thư hoặc có người bắt đầu bằng sách Đại Học hoặc sách Trung Dung bởi vì họ không biết sách Luận Ngữ là sách làm rõ ràng đạo là gì, xây dựng các lời khuyên từ đầu đến cuối nhất quán không có điểm nào đáng tiếc, không có sách nào có thể sánh bằng.

Kết cuộc việc tạo ra người trong thiên hạ không hiểu được đạo của phu tử là do nguyên nhân vừa trình bày ở trên. Tôi nhờ ơn phước thần của trời nên đã được mở mắt bằng 2 bộ sách Luận Ngữ và Mạnh Tử, nội dung học vấn đã bị quên lãng trên ngàn năm. Do đó, ở đây tôi thuật lại nội dung suy nghĩ của bản thân, không che dấu điều gì bởi vì tôi tin rằng nội dung này không phải là độc đoán của riêng tôi.

  • Đạo phải đúng phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng ở mọi nơi ở mọi lúc và con người không thể xa cách đạo dù trong giây lát ngắn ngủi. Cần đọc Luận Ngữ với quan điểm này mới hiểu được cái hay của sách.

Duy Trinh (tức Jinsai) lại nói như sau.Đạo nhất định phải đúng và rõ ràng minh bạch hơn tất cả mọi thứ đồng thời dễ biết và dễ hiểu, dễ áp dụng ở bất cứ địa điểm nào trên thế giới, và không thể cách rời xa bản thân con người trong giây lát. Vì vậy đạo không khó biết, không khó hiểu nhưng khó giữ gìn (nghĩa là tuân theo trong đời sống). Nếu không khó giữ gìn thì cũng khó đối với việc chỉ biết vui thích với đạo.

Thứ cao xa không thể vói tới không phải là đạo.Thứ được ẩn cất dấu trong góc xó, mọi người không thể biết đến thì cũng không thể là đạo. Bởi vì thứ này không phải là đạo mà con người không thể cách rời trong giây lát khi ở bất cứ nơi nào trên thế giới hay có thể áp dụng cho bất kỳ lúc nào cho đến vạn đời sau.

Thứ mà trong 10 người không thể hiểu nhưng chỉ có 1 người có thể hiểu biết được thì không phải là đạo.Thứ 10 người không thể nhưng chỉ có 1 người có thể áp dụng thì không phải là đạo không thể cách rời trong giây lát cho suốt cả vạn đời về sau. (a)

Nếu như biết được đạo lý nói trên thì chúng ta có thể biết đức của phu tử cao và siêu việt hơn các thánh nhân thông thường, và đạo của Khổng tử cao, vượt trội hơn trong mọi thời đại.(b)

Trong sách Trung Dung viết “Vào ngày xưa của 3 thời đại Hạ, Ân và Chu không có sai lầm, trong thiên hạ rộng lớn cũng không có việc trái ngược với đạo. Hỏi quỷ thần vô hình rằng đạo có đúng không, quỷ thần cũng cho rằng đúng. Dù cho các thánh nhân của 100 đời sau cũng không do dự ngần ngờ cho đạo nói trên là đúng.”(Chương 24 sách Trung Dung). Đây là nội dung ca ngợi đức và sự thành công việc học của Khổng tử.

Các học thuyết khác quá cao xa người thường không thể vói đến, và được cất dấu trong 1 góc không thể biết đến.Nếu lấy tiêu chuẩn của 3 thời đại ngày xưa mà phán đoán thì đạo đó sai lầm. Đem áp dụng thử vào xã hội con người thì trái ngược đạo lý không thể dùng được. Dùng các học thuyết này để suy đoán các cảm tình của con người, nguyên lý tự nhiên của sự vật thì thấy tất cả đều không nhất trí trùng hợp.

Trong vũ trụ vốn không có những nguyên lý như các học thuyết này chủ trương hoặc đề xướng.Dù cho đạo có cần phải nói quanh co khó hiểu cũng phải ở mức độ nào đó có thể chấp nhận được.Một khi đến cực hạn của độ cao chắc chắn phải trở lại vị trí thấp hơn, và 1 khi đã tiến đến nơi tận cùng xa thì phải quay lại chỗ gần.Khi trở lại nơi thấp và gần thì chủ trương của học thuyết mới trở nên thực tế. Bởi vì những nội dung thấp và gần với con người thì không bao giờ thay đổi và con người mới có thể sinh sống với những nội dung đó; còn đối với những điều cao xa thì không phải là nội dung con người có thể sinh sống với chúng hàng ngày. Bởi vì trình độ thấp và gần mà người đời gọi vốn không phải thật sự thấp và gần mà các nội dung này rất bình thường, có nghĩa là không kỳ lạ hoặc cao siêu hoặc hiếm có. Thật ra đạo là những nội dung mà xã hội con người từ xưa đến nay căn cứ vào để vận hành, quản lý xã hội, là đạo đức mà con người cần phải tuân theo, và trong sinh hoạt hàng ngày trong bất cứ trường hợp hoặc cảnh ngộ nào cũng phải có hoặc tuân theo. Như vậy thì đạo làm sao có thể cao xa cho được?

Những người chán ghét những nội dung thân cận gần gũi, vui thích với các nội dung cao xa thì làm sao có thể kể lại thứ đạo không thể xa cách trong giây lát, và phổ biến thông dụng cho mọi nơi và mọi thời điểm cho đến muôn đời về sau. Người học trước hết phải biết điều này, có được như vậy mới có thể đọc hiểu sách Luận Ngữ.

  • Sách Luận Ngữ giảng dạy những điều tốt lành và đạo được hàm chứa trong đó. Trái lại, sách Mạnh Tử giải thích đạo là gì và những điều tốt lành được hàm chứa trong đó.

Duy Trinh lại nói như sau. Người có ý định học đạo của Khổng tử và Mạnh tử (tức đạo Khổng Mạnh) cần phải biết điểm chung và điểm khác nhau của 2 sách này. Thỏa mãn được điều kiện này, chủ ý căn bản của Khổng tử và giải thích của Mạnh tử tự nhiên sẽ trở nên minh bạch rõ ràng. Bởi vì có 2 điều quan trọng trên đời này, đó là đạo và lời khuyên tốt lành.Đạo là gì?Là nhân nghĩa.Lời khuyên tốt lành là gì?Là việc học.

SáchLuận Ngữ chuyên giảng dạy những lời khuyên tốt lành.Đạo được chứa đựng trong những lời khuyên tốt lành này.Sách Mạnh Tử chuyên giải thích đạo, các lời khuyên tốt lành được chứa đựng trong đó.Tại sao vậy? Lý do như sau.

Đạo có đầy trong vũ trụ (nghĩa là chỗ nào nào trong vũ trụ đều có hiện diện của đạo, giống như quy luật tự nhiên) và quán triệt từ xưa đến nay, không có chỗ nào mà đạo không tồn tại, không có giây phút nào mà không có tác dụng của đạo (giống như quy luật tự nhiên).Đạo hoàn hảo.Tuy nhiên, đạo không thể làm con người tự mình biết hướng về điều thiện. Do đó, để làm sáng tỏ đạo đức mà làm người cần phải luôn luôn gìn giữ tuân theo, thánh nhân đã đề xướng ra nhân nghĩa, thông qua kinh Thi, kinh Thư, Lễ Ký, kinh Nhạc để dạy con người thành thánh nhân hoặc hiền nhân (Sorai chủ trương: thánh nhân là do bẩm sinh, không thể đạt được bằng việc học), và kết quả tạo ra nền tảng cơ sở để thế giới con người được sống hòa bình muôn đời, đều là do công ơn của thánh nhân. Vì lý do này mà phu tử chuyên thuyết giảng các lời khuyên tốt lành, và đạo được bao gồm trong đó.

Đến thời đại của Mạnh tử vì cách xa thời đại của thánh nhân (tức Khổng tử) nên giá trị của đạo bị che lấp, các học thuyết dị đoan xuất hiện nhiều và rối loạn như tổ ong bị chạm phá, các học phái khác cho rằng học thuyết của mình mới thật sự là đạo, không có ai thống nhất được các học thuyết này. Do đó Mạnh tử mới đề xướng nhân và nghĩa và sau đó tuyên bố trong nhân gian. Giống như ban ngày thay thế cho ban đêm; ấm áp thay thế cho lạnh rét, không có thiên lệch, chiếu sáng như mặt trời và tinh tú làm cho mọi người không còn chỗ nào để lạc lối. Trong suốt 7 chương (mỗi chương chia là thượng và hạ, tổng số 14) của sách, ông giảng giải dọc ngang (sâu và rộng); đôi lúc lời nói có vẻ mâu thuẫn nhau nhưng không có điểm nào là không lấy nhân nghĩa làm chủ ý. Nội dung sách giảng giải cần nên giữ nhân nghĩa trong lòng để nuôi dưỡng và bổ sung bản tính, khuếch đại nhân nghĩa hoặc lấy nhân(yêu thương)làm cơ sở và hành động theo nghĩa(chính đáng), thật ra đó là những lời khuyên dạy tốt lành. Do đó, sách Mạnh Tử mặc dù chuyên thuyết giảng về đạo nhưng trọng tâm của nội dung chứa đựng các lời khuyên dạy tốt lành.

Ngôn từ của 2 sách Luận Ngữ và Mạnh Tử mặc dù khác nhau nhưng nội dung trên thực tế cả 2 bổ sung cho nhau. Đó là điểm chung của 2 sách. Đồng thời điểm trọng yếu của 2 sách cũng là mục đích của việc học.Nếu không có nhận thức nói trên thì dù có cố gắng học thế nào cũng không thể bước vào trong cửa học thuyết Khổng tử và Mạnh tử.Tôi mong mỏi người học nên lưu ý điểm này.

  • Giải thích mục đích đề xướng “bản tính con người vốn thiện” của Mạnh tử và tại sao Khổng tử đã không đề xướng

Duy Trinh lại nói tiếp. Mạnh tử là người đầu tiên đề xướng bản tính con người vốn thiện để làm cương lĩnh cho đạo học (Nho học) cho muôn đời sau. Tại sao Khổng tử đã không đề xướng chủ trương này? Đó là bởi vì nếu như thực hiện theo lời khuyên dạy của Khổng tử thì bất cứ ai cũng có thể trở thành thánh nhân hoặc hiền nhân (người tài đức). Đó là mục đích của Khổng tử nên không cần thiết luận bàn về việc bản tính con người lúc sinh ra là xấu hay vốn thiện, không có chủ trương tính vốn thiện cũng không sao. Do đó, Khổng tử nói “Tính tương cận, tập tương viễn” (bản tính bẩm sinh của con người gần gũi giống nhau nhưng do trình độ tập luyện, tu dưỡng sẽ phát sinh cách biệt to lớn) (Bài 2 thiên 17 Dương Hóa, Luận Ngữ). Khoảng cách giữa đại chúng và vua Nghiêu, vua Thuấn to lớn vô cùng nhưng Khổng tử lại nói là tương cận(gần nhau). Ý của Khổng tử trong lời nói này là ý trong câu nói “Con người không chừa ai cũng có thể trở thành vua Nghiêu, vua Thuấn”của Mạnh tử (Bài 2 chương 12 Cáo Tử hạ, Mạnh Tử). Do đó, mặc dù không nói “bản tính con người vốn thiện” nhưng “tính vốn thiện của con người” đã tự nhiên được hàm chứa trong lời nói trên của Khổng tử. Bởi vậy thật sai lầm nếu nói Khổng tử không đề cập đến việc “bản tính con người vốn thiện”.

Tôn chỉ của Mạnh tử vốn là nhân nghĩa.Lý do Mạnh tử đề xướng học thuyết “bản tính con người vốn thiện” là để cứu giúp những người “tự hủy hoại mình” với mục đích làm căn cứ cho mục tiêu tu dưỡng cho bản tính bản thân được tốt đẹp hơn thôi.

Tôi nghĩ rằng trên đời này không có gì quý hơn đạo, và kế đến là những lời khuyên tốt lành. Việc con người thành đạt được đạo và tiếp thụ được những lời khuyên tốt lành là nhờ bản tính tốt của con người. Nếu như bản tính con người vô tri như chó như gà thì dù đạo có tốt lành đến đâu cũng không thể vào cửa của đạo được, và dù lời khuyên có tốt lành đến mức độ nào cũng không thể tuân theo được. Tuy nhiên nhờ bản tính con người vốn tốt, vốn thiện nên việc thành đạt được đạo hoặc việc tiếp thụ những lời khuyên tốt lành mới dễ dàng. Đây là lý do Mạnh tử đề xướng học thuyết “bản tính con người vốn thiện” dành cho những người “tự hủy hoại mình”. Bởi vì không phải “bản tính con người sinh ra vốn thiện” mà không cần những lời khuyên dạy tốt lành.Tại sao vậy? Bởi vì nếu chỉ giao phó cho bản tính bẩm sinh thì con người có thể chỉ là 1 con người bình thường, chỉ là 1 con người ngu muội, và nếu không may có thể trở thành như vua Kiệt, vua Trụ. Do đó, Mạnh tử nói “Nếu không bổ sung và phát triển bản tính vốn thiện của con người thì ngay cả việc phụng dưỡng cha mẹ, con người cũng không có thể thực hiện đầy đủ” (Bài 6 chương 3 Công Tôn Sửu thượng, Mạnh tử), và ông cũng nói “Nếu không bồi dưỡng nuôi nấng thì bất kỳ thứ gì cũng tiêu diệt”(Bài 8 chương 11 Cáo Tử thượng, Mạnh Tử). Hai lời nói trên, lời nào cũng nói lên ý “không thể chỉ trông mong vào bản tính bẩm sinh” mà không học tập tu dưỡng.

Việc cho rằng Mạnh tử đề xướng học thuyết “bản tính con người vốn thiện” là chỉ để làm tôn chỉ làm cho việc học đời sau trở thành không tưởng là do việc quá xem trọng bản tính bẩm sinh chớ không phải là chủ ý của Mạnh tử.

Ghi chú

(1) Cao Dao, Quỳ, Long là các vị quan của vua Thuấn. Cao Dao phụ trách về tư pháp, Quỳ phụ trách về âm nhạc, Long phụ trách về thông tin.

(2) Tiểu đề “Cương Lĩnh” khó hiểu nên người biên dịch đặt tựa khác để độc giả dễ hiểu hơn, hoặc có thể hiểu là “Cương lĩnh đọc Luận Ngữ”.

Nhận xét

(1) Chúng ta có thể thấy Jinsai chịu ảnh hưởng của Trình tử rất sâu đậm về cách đọc, cách học sách Luận Ngữ và Mạnh tử. Trong “Cương lĩnh” ông chỉ trích dẫn lời của Trình tử.Tuy nhiên phải công nhận đúng là cách đọc sách hữu ích.

(2) Nội dung của đoạn(a) (“Thứ mà trong 10 người…vạn đời về sau”) cho chúng ta thấy, nội dung của đạo Khổng không phải là quy luật tự nhiên hoặc lý lẽ hoặc chân lý vĩnh cửu như Tống Nho chủ trương mà chỉ là một cơ sở giáo dục rất căn bản cho sinh hoạt của con người. Nghĩa là giống như Ogyu Sorai chủ trương, đạo Khổng là do các 7 vị tiên vương sáng suốt là Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn vương, Võ vương và Chu Công Đán lập ra để an dân.

(3) Nhận xét về nội dung của đoạn (b) (Nếu như biết được đạo lý…trong mọi thời đại.):Thật ra, đạo Khổng là do Khổng tử ghi chép và đút kết lại từ đạo của 7 vị tiên vương như Sorai giải thích.Chính Khổng tử cũng nói chỉ  thuật y lại chứ không có tạo thêm ra (Bài 1 thiên 7 Thuật Nhi, Luận Ngữ: “Thuật nhi bất tác”; Chương 30, Trung Dung: “Trọng Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn”).

Nguyễn Sơn Hùng

Biên dịch 12~15/11/2023 khi du lịch ở Úc

Đánh máy, xem lại tháng 10/2025


Tài liệu tham khảo

  1. Kaitsuka Shigeki (1983): Itô Jinsai, Danh Tác của Nhật Bản 13, Chuokouronsha
  2. Itô Jinsai: Luận Ngữ Cổ Nghĩa (nguyên văn)
  3. Ogyu Sorai: Luận Ngữ Trưng, Ogawa Tamaki dịch chú (1994), Heibonsha.

Tâm tình Gia đình Sư Phạm

   (Chúc Thọ GS.Doản Quốc Sỷ 100 tuổi,ảnh báo Người Việt )

 TÌNH

Được sinh ra trong trời và đất, cho dù là con giun con dế, mọi giống loài to nhỏ, đến con người đều được gọi là sinh vật hữu TÌNH. Đơn giản là vì mọi loài đều có tình cho nhau. Mỗi loài bày tỏ mỗi cách riêng, con người thì họ nhiều cách và nhiều loại tình nhất.
Tình người, tình quốc gia, tình gia đình, tình trai gái, tình đồng đội, tình bạn, tình thầy trò… Chúng ta dừng ở lại ba chữ “tình thầy trò” để lạm bàn đôi chút. Vì hôm nay, tại nhà của cụ Sỹ, chúng tôi có được ba chữ “tình thầy trò” một cách tròn đầy nhất. Nó được thể hiện qua thời gian, không gian và các học trò của cụ. Những người đã cưu mang, gìn giữ cái tình cảm cao quý này cho đến ngày hôm nay, nơi đất nước Hoa Kỳ, xa nửa vòng trái đất với quê nhà Việt Nam.
Quây quần xung quanh bàn cơm thân mật là nhóm thầy trò vẫn thường xưng tên là gia đình Sư Phạm. Do vì tất cả đều là thầy và trò của trường Sư Phạm Sài Gòn. Bao gồm niên trưởng cụ Sỹ, đạt 100 tuổi hạc, kế đến là cụ Nguyễn Duy Linh, kém cụ Sỹ mười con hạc, trò Kim Lan, trò Hạnh, trò Dung, trò Khanh, trò Chí, trò Bình, mọi người đều cảm thấy ấm áp quá với mối “tình thầy trò” này.
Cụ Sỹ có một câu chuyện thường kể đi kể lại trong những buổi gặp gỡ bạn bè hay học trò, hẳn là gây nhiều cảm xúc nên cụ kể hoài “Nghề giáo chúng tôi lương thì không bao nhiêu nhưng tình thầy trò thì vô giá. Là thầy giáo của ba trường Sư Phạm Sài Gòn, Đại Học Văn Khoa và Đại Học Vạn Hạnh thì làm sao tôi nhớ hết các học trò, nhưng ngược lại học trò nhớ thầy của chúng. Có lần tôi đang đi bên này đường và một nhóm người khác đi bên kia đường. Bỗng dưng tách ra một anh chàng vội vàng băng qua đường tiến về tôi. Anh chàng cúi chào thầy và xưng danh, xưng là học trò của tôi ở lớp nào tại trường nào và năm học nào. Chỉ có thế thôi rồi lại vội vàng băng qua đường và nhập bọn đi tiếp. Thế đấy, tình thầy trò chúng tôi chỉ có thế mà thật là vô giá!”
Còn cụ Linh thì…“Năm nào cũng vậy, tôi cầm đầu một nhóm lâu la học trò đi thăm các bậc trưởng thượng như cụ Sỹ đây này.”, và điều hành những buổi họp mặt Gia Đình Sư Phạm hải ngoại, cũng như
quốc nội. Giữ lửa cho nồi khoai được chín đều là vai trò của cụ Linh, người dẫn dắt tinh thần cho nhóm học trò thân yêu của mình. Các trò nay đã là ông bà nội, ông bà ngoại hết cả rồi, thế nhưng vẫn một mực tôn quý thầy và nghe lời những chỉ thị. Việc này không tự nhiên mà có, vì cụ Linh không những là thầy mà còn trong vai trò người anh cả với lũ lâu la này.
Nhớ lại chuyện xưa, chắc cũng trên dưới sáu mươi năm gì đó, khi cụ Sỹ từ Hà Tiên trở về Sài Gòn, nhận nhiệm sở tại trường Sư Phạm Sài Gòn thì được cụ Linh hoan hỉ tiếp đón. Hai cụ được ban giám hiệu trường giao nhiệm vụ chăm sóc ban Báo Chí. Cụ Sỹ làm trưởng, cụ Linh làm phó. Phó vậy chứ làm việc vất vả hơn trưởng nhiều, vì phải đọc trước tất cả các bài viết, thơ văn và tuyển chọn đợt một. Sau đó mới chuyển đến cụ Trưởng đọc duyệt để cho đăng trên đặc san của trường. Hai cụ hỗ tương lẫn nhau để chuyển đến các giáo sinh của trường những tác phẩm hay. Có những tác giả được cụ Phó khen là nhà thơ hay nhà văn tương lai, như anh Bùi Đăng Khuê đã có những bài thơ bất hủ về Cho Và Nhận.
Thầy chẳng cho gì ngoài ánh mắt,
Lúc muộn phiền con chỉ thấy mây bay.
Thầy chẳng cho gì ngoài giọng nói,
Đượm tình người thành phấn trắng trên tay.
Khi thầy cho thầy cũng không hề biết,
Con vô tình đón nhận cũng không hay.
Nhưng con biết thầy đã cho tất cả,
Bởi lòng con bát ngát núi sông này.
(Bùi Đăng Khuê)
Thế rồi thời gian trôi, không gian thay đổi, người người già đi, có người đã ra đi mãi mãi, và những người còn ở lại. Có người còn ở quê nhà Việt Nam và có người đã trôi dạt xứ người, thế nhưng “tình thầy trò” thì vẫn thế. Có thể nói “tình thầy trò” càng gắn bó khi con người càng xa tổ quốc quê hương, cho nên Gia Đình Sư Phạm hải ngoại vẫn sinh hoạt đều đặn. Những buổi gặp gỡ đông đảo hoặc gặp gỡ nhỏ lẻ đều
mang đúng tinh thần “tôn sư trọng đạo”.
Một hình ảnh đẹp của “Tình”, làm con người nổi trội lên so với những sinh vật hữu tình khác!
California, ngày 2 tháng 7 – 2022
Doãn Cẩm Liên
NGHĨA
Người ta thường nói “tình nghĩa”, hai chữ này hay đi đôi với nhau; thoạt đầu mới nghe có thể có người nghĩ chữ “ nghĩa “ là tiếng đệm đi theo chữ tình nghe cho có vẻ êm tai, dịu dàng hơn ; nhưng thật ra chữ nghĩa đứng một mình vẫn có ý sâu sắc không kém chữ tình đâu !
Người ta cũng có lúc nói nghĩa đồng bào, nghĩa vợ chồng, nghĩa anh em, nghĩa đồng môn...và nghĩa thầy trò. Đối với những người đã mang trong đời nghiệp giáo thì cái cụm từ “ nghĩa thầy trò” với họ có ý nghĩa rất thiêng liêng, chẳng trách từ đời xưa đã có ba chữ “Quân Sư Phụ”luôn đi kèm với nhau, người Thầy luôn luôn là một hình ảnh cao quý, gần như là “thần tượng” của học trò, nhất là lũ học trò nhí mới chập chững những bước đầu tiên vào trường học. Còn nhớ lúc thằng con trai nhỏ bắt đầu đi học, ngày nào về nhà nó cũng luôn miệng nói “ cô giáo bảo thế này nè, cô giáo dặn thế kia...”, lời cô giáo nói luôn luôn là đúng, lúc đó cô giáo là “ thần tượng “ của nó. Nói chi xa, ngay cả lúc mình còn nhỏ, ngày đầu tiên đi học về, tôi đã nằng nặc xin tiền mẹ mua giấy bóng bao tập, mà giấy màu hồng cơ vì cô giáo đã dặn chỉ dùng một màu đấy thôi, còn tập thì phải là tập 100 trang hiệu Olympic là loại giấy tốt láng viết ngòi bút mực đẹp. Nhà có sẵn nhiều cuốn tạp chí thế giới tự do của hàng xóm cho, loại giấy này dày, in màu rất đẹp; mẹ kêu lấy dùng, tôi đã dãy nãy nhất định không chịu vì không đúng ý cô giáo, cuối cùng mẹ cũng phải chịu thua con, vì mẹ không phải là cô giáo.
Lúc xong bậc trung học, có lẽ là do cơ duyên nên tôi đã thi đậu vào trường SPSG, rồi qua hai năm học , tiếp xúc với các Thầy, Cô và bạn bè, cùng đi thực tập lên lớp dạy, có bao nhiêu kỷ niệm với nhau , bao nghĩa tình nối kết giữa thầy trò thật đáng trân quý. Còn nhớ năm học nhị niên, trường có tổ chức “Ngày Sư phạm”mấy ngày cuối tuần, tất cả các lớp nhất niên, nhị niên đều tham gia, mỗi lớp cắm lều tại sân trường, vui sao biết mấy, các sinh hoạt, các cuộc thi đua, văn nghệ, báo chí, trò chơi; các Thầy, Cô như quên hẳn vai trò gia sư trang trọng, cũng hoà mình cùng sinh hoạt với đám học trò, lúc này câu tục ngữ “nhất quỷ, nhì mà, thứ ba học trò “được thể hiện rõ nét nhất.
Cuộc vui nào rồi cũng tàn, hội ngộ nào rồi cũng chia tay, thầy trò lưu luyến nắm tay nhau hát lời tạm biệt “ Gặp nhau đây rồi chia tay, ngày vàng như đã vụt qua trong phút giây...đường trường sông núi hẹn mai ta sum vầy...”
Nhưng, sau đó không có cuộc sum vầy truyền thống sư phạm nơi mái trường thân yêu một lần nào nữa, vì thời thế đã thay đổi, mái trường đã thay tên , thương hải đã biến vi tang điền !...
. . . . . . . . . . . . . . . . .
Gần nửa thế kỷ rồi mà ngỡ như mới hôm qua; hôm nay thầy trò có dịp tái ngộ nơi đất khách quê người, tóc thầy tóc trò đều đã điểm sương, người còn kẻ mất , ngậm ngùi ngồi bên nhau nhắc chuyện xưa tích cũ, rồi thoắt cười , thoắt khóc khi một người nhắc lại một tình thân đã vĩnh viễn đi xa. Thôi thì xin cứ tạm bằng lòng với hiện tại khi thầy trò còn có lần gặp nhau, tay cứ bắt mặt cứ mừng , cùng nhau hát bài “hôm nay đây còn vui trông thấy nhau...”, cái tình cái nghĩa thầy trò vẫn sâu đậm bền vững , thế là đủ, hãy trân trọng những giây phút quý báu còn ở bên nhau , vì khi quay lưng từ giả, có ai biết được sẽ còn có lần sau tái ngộ, khi thầy trò dù không muốn nói ra nhưng cũng đang từng ngày từng bước bước dần lên chuyến xe cuối cùng trong cuộc đời…
“ Tình sư đệ muôn năm bền vững,
Nghĩa thầy trò trọn kiếp không phai.
Dù cho con tạo an bày,
Nghĩa tình, tình nghĩa ngày dài thâm sâu.”
Garden Grove (CA),
Tháng 7/22
Ngọc Ánh SPSG12

28 thg 10, 2025

Thứ Hai 27/10/2025 Hành trình đi thăm Tp.Biên Hoà

 Bữa cơm trưa tình nghĩa

@
10h15, mọi người đến “Làng Ẩm thực Sông Tràm” dùng bữa cơm trưa do anh Mạnh và bốn người em rể chiêu đãi. Khuôn viên của nhà hàng gồm những dãy nhà sàn nẳm trên một bàu nước rộng, có nhiều view đẹp.
Việc đầu tiên là nghe Thầy Nguyễn Duy Linh nói về Cố Nhà giáo Doãn Quốc Sỹ - người bạn vong niên của Thầy và cũng là người Thầy chung của các thế hệ cựu giáo sinh SPSG. Và đây có lẽ là cách tưởng niệm rất riêng của một đồng nghiệp thân thiết và những học trò sư phạm xưa ở trong nước về Thây Doãn Quốc Sỹ!
Trước khi dùng bữa, mọi người cũng được nghe Thầy Nguyễn Duy Linh nhấn mạnh đến Cái Tình - yếu tố cốt lõi nhất của GĐ SPSG từ trước đến giờ và mong mỏi của Thầy về việc vẹn giữ cái Tình ấy.
Bữa cơm thân mật trở nên rộn ràng, vui vẻ và “ngon” hơn nhờ vào “món gia vị” rất đặc biệt của “chủ xị” Trần Mạnh (K8), đó là các bài hất vui mà anh trình bày rất diễn cảm: Mừng Gặp Nhau; Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ….
Đặc biệt, có sự xuất hiện của mọit vài anh chị cựu giáo sinh khác nữa ở Đồng Nai, Biên Hoà: Anh Lưu Luyến, Tiến Hưng (K10); chị Lê Sử (K8), nhà thơ Hà Thu Thuỷ (K8).
Nhờ vậy mà không khí của bữa cơm chung đầy ắp tiếng nói cười rộn rã, thân tình của mọi người tham gia khi ký ức được khai quật, vô vàn những hoài niệm đẹp được đánh thức!
Mọi người cũng đã tranh thủ ghi hình cá nhân và tập thể để lưu dấu kỷ niệm về chuyến thăm và hội ngộ Thầy Trò, đồng môn ở vùng đất Trấn Biên lần này.
Chân thành cám ơn anh Trần Mạnh và các thành viên trong gia đình anh về sự tiếp đón niềm nỡ, chu đáo đã dành cho Thầy và các đồng môn cũ!
Trân trọng!