Vậy hôm nay là kỷ niệm ba năm ngày thành lập nhóm .
Những Người Bạn Sư Phạm Saigon
31 thg 10, 2025
1 Bài Từ FB Sư Pham Saigon Xưa (FB. Trần Ngọc Tình K.11 -SPSG )
3 bài thơ tình Á Đông.- Pháp Hoan Dịch
3 bài thơ tình Á Đông.
30 thg 10, 2025
29 thg 10, 2025
LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA Tổng Luận (Diển Đàn Khai Phóng )
Tác giả: Itô Jinsai
Biên dịch: Nguyễn Sơn Hùng
***
I. Lai lịch (của sách Luận Ngữ)
Hình Bỉnh(932~1010) đời Tống viết:“Theo Văn Nghệ Chí của Hán Thư, Luận Ngữ là:1) Nội dung hỏi và trả lời giữa Khổng tử và các đệ tử (học trò của ông) hoặc các người đương thời; 2) Lời thảo luận giữa các đệ tử lọt vào tai của Khổng tử. Khi Khổng tử còn tại thế, các đệ tử mỗi người tự ghi chép lại nhưng sau khi phu tử qua đời, các môn nhân tập hợp các nội dung ghi chép nói trên và biên tập lại. Do đó, họ đặt tựa đề là “Luận Ngữ””.
Đến đời Hán, nội dung còn lưu truyền lại chia thành 3 học phái. “Lỗ Luận Ngữ” là nội dung được truyền thừa ở nước Lỗ. Thứ tự các thiên của sách Luận Ngữ được phổ biến hiện nay là căn cứ vào sách Lỗ Luận Ngữ này.
“Tề Luận Ngữ” là sách được lưu truyền lại ở nước Tề. Sách này còn có thêm 2 thiên: thiên Môn Vương và thiên Trí Đạo, tổng cộng 22 thiên. Ngay cả trong 20 thiên có thiên, có tiết mà sách Lỗ Luận Ngữ không có.
“Cổ Luận Ngữ” là sách được phát hiện trong vách nhà cũ của Khổng tử gồm có 21 thiên.Ngoài việc trùng lặp của thiên Tử Trương, thứ tự các thiên cũng khác với sách Lỗ Luận Ngữ và sách Tề Luận Ngữ.
Khổng An Quốc(cháu đời thứ 10 của Khổng tử, không rõ năm sinh năm mất,Tiền Hán) chú thích và Mã Dung(79~166) đời Hậu Hán cũng có chú thích.
Trương Vũ張禹(?~TCN 5), một mặt học Lỗ Luận Ngữ từ Hạ Hầu Kiến, một mặt học Tề Luận Ngữ từ Khang Sinh và Vương Cát, chọn lựa những nội dung hay của 2 sách này để biên soạn và đặt tên là “Trương Hầu Luận”.
Bao Hàm包咸(TCN 6~ 65) và Chu thị(khác với Chu Hy đời Tống) đời Hậu Hán mỗi người cú đọc một cách (cắt thành câu để hiểu nghĩa, Hán Văn ngày xưa không có dấu phẩy, dấu chấm câu) và lập định bản (定本, phiên bản xác thực) (xem xét, so sánh các phiên bản khác nhau, tu bổ các chỗ sai hoặc thiếu để lập phiên bản hợp lý và đúng hơn), kế đến sách được dùng làm sách giáo khoa cho các quan chức học hoặc học để ra làm quan (quan học官学).
Trịnh Huyền鄭玄(127~200. Hậu Hán) sử dụng sách Lỗ Luận Ngữ, sách Trương Hầu Luận và các sách giáo khoa của Bao thị và Chu thị đối chiếu với sách Tề Luận Ngữ và sách Cổ Luận Ngữ để viết chú thích.
Quan Thượng Thư của Sử Bộ (bộ Nội Vụ) tên Hà Yến何晏(?~249) vừa tập hợp các giải thích của các học giả vừa thêm giải thích của mình để viết sách Luận Ngữ Tập Giải.Ông dâng sách lên cho Ngụy hoàng đế (Tề vương của nước Ngụy) trong khoảng các năm có niên hiệu Chính Thủy (240~248).Sách này được thịnh hành và người đời sử dụng.
Duy Trinh (tức Jinsai) nghĩ rằng, theo Trịnh Huyền, “Luận Ngữ là nội dung do các đệ tử của Khổng tử như Trọng Cung (tức Nhiễm Ung, Ung của thiên 6 Ung Dã), Tử Du, Tử Hạ tuyển định”.Theo Trình tử:“Sách Luận Ngữ là do tay của các môn nhân của Hữu tử và Tăng tử làm thành nên sách này chỉ gọi 2 nhân vật này (trong các đệ tử của Khổng tử) bằng từ “tử”, với ý nghĩa là tiên sinh.” Theo tôi nghĩ (tức Jinsai), nếu chỉ cho rằng các người này chọn lời nói của Khổng tử thì đúng nhưng đối với lời của chư tử (nghĩa là các đệ tử của Khổng tử) thì không thể khẳng định như vậy. Sách Luận Ngữ vốn không phải do 1 người ghi chép và thời điểm sách hình thành cũng không phải cùng vào 1 thời đại. Lý do của ý tưởng này là bởi vì ngoài Hữu tử và Tăng tử, trong sách cũng còn có gọi Mẫn tử, Nhiễm tử bằng “tử”. Ngoài ra, trong các lời nói của chư tử (các đệ tử của Khổng tử), số lời nói của Tăng tử là nhiều nhất, kế đến là của Tử Cống và của Tử Hạ. Ở trong thiên Học Nhi, ghi chép lời của Hữu tử đến 3 lần. Nếu kết hợp với thiên Tử Trương ghi chép nhiều lời của Tử Trương thì tất cả các lời của Khổng tử là do Tử Du, Tử Hạ viết nhưng lời của các chư tử (các đệ tử của Khổng tử) chúng ta hiểu là do học trò của mỗi người này ghi chép lại. Tóm lại những người phụ trách biên tập sách Luận Ngữ là những người của Tử Du và Tử Hạ. Việc này đại thể giống như việc Tăng Củng曽鞏nói người ghi chép Nghiêu Điển, Thuấn Điển của sách Thượng Thư là bạn bè của Cao Dao皋陶, Quỳ夔và Long竜(1).
Số người giảng giải hoặc chú thích Luận Ngữ từ đời Tống đến nay đã hơn vài trăm người. Tuy nhiên có nhiều người tự đưa ra kiến giải của mình, trong đó có nội dung lẫn lộn với học thuyết của Phật học và Đạo giáo, không thể tin cậy được. Nhưng các giải thích của các học giả đời Hán vì còn gần gũi với cổ đại nên có mặt còn tiếp nhận và truyền đạt được chân ý của Khổng tử (Ogyu Sorai cũng có nhận xét này). Do đó, sách Luận Ngữ Cổ Nghĩa này phần lớn dừng lại ở phạm vi của sách Luận Ngữ Chú Sơ(của Hình Bỉnh). Đối với giải thích của các học giả khác chỉ chọn lọc những điểm ưu tú. Đối với ngữ nghĩa (nghĩa của chữ) và huyết mạch (chính thống) của Khổng học, tôi đã không nghĩ đến thân phận mà thêm kiến giải riêng của mình (nên hiểu là cách nói khiêm tốn).
Duy Trinh lại nói, Luận Ngữ gồm 20 thiên, và người ta phân chia thành 2 quyển thượng và hạ để truyền bá. Việc phân chia này giống như việc phân chia thành chính tập (phần nội dung chủ yếu) và tục tập (phần nội dung tiếp theo để bổ sung) của các văn tập đời sau. Người biên tập sách Luận Ngữ trước hết thu thập, ghi chép lại 10 thiên đầu để dạy và học tập. Sau đó lại biên tập thêm 10 thiên tiếp theo để bổ sung những nội dung mà tập trước thiếu sót. Ngày nay người ta hợp chung cả 2, thành 20 thiên.
Lý do như sau. Theo đặc điểm của thiên 10 Hương Đảng, thiên này phải ở vị trí cuối cùng, có nghĩa là ở vị trí của thiên 20 của sách nhưng hiện tại thiên này ở vị trí chính giữa của sách. Nội dung của 10 thiên đầu cũng đủ cho 1 quyển sách. Khi xem xét kỹ sách Luận Ngữ, thiên thuật lại chí hướng của Tăng Điển (tức Tăng Tích) (Bài 25 của thiên 11 Tiên Tiến), thiên Tử Lộ hỏi về chính danh (tức Bài 3 thiên 13 Tử Lộ), thiên Quý Thị thảo phạt (tức Bài 1 thiên 16 Quý Thị), là những thiên rất dài.
Ngoài ra, các nội dung như“lục ngôn lục tế”(6 thứ đức và 6 điều che lấp) (Bài 8 thiên 17 Dương Hóa), “quân tử hữu cửu tư” (9 điều luôn luôn cần để ý đến của người quân tử) (Bài 10 thiên 16 Quý Thị), “quân tử hữu tam giới” (3 điều cảnh giới của người quân tử) (Bài7 thiên 16 Quý Thị) đều không thấy ở trong phần đầu.Lý luận và thể văn có điểm không giống với phần đầu. Từ các điều này có thể hiểu 10 thiên của phần sau là bổ sung nội dung thiếu sót của phần đầu.
II. Cương lĩnh
(Phương pháp hữu ích khi đọc Luận Ngữ và Mạnh Tử) (2)
- Đề xướng của Trình tử
Trình tử (tức Trình Di) nói “Đọc hết sách Luận Ngữ có người thản nhiên.Có người đọc xong thì vui mừng hiểu được 1, 2 câu trong sách.Có người trở nên thích sách này khi đọc xong.Có người vừa khi đọc hết thì vui điên lên, tự mình tay múa, chân nhảy mà không hay biết.”
Trình tử lại nói “Người học đạo làm người cần phải lấy 2 sách Luận Ngữ và Mạnh Tử làm căn bản. Khi đọc được 2 sách này thì không cần học lục kinh (tức 6 kinh sách: kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Nhạc, kinh Dịch và kinh Xuân Thu) cũng tự nhiên hiểu (ý nói nội dung 2 sách bao gồm cả nội dung hoặc các nội dung chủ yếu của lục kinh) (Ogyu Sorai phê phán chủ trương này, cho rằng đây là 1 tệ hại quan trọng của Tống Nho vì nội dung đạo Khổng, tức đạo tiên vương nằm trong 6 kinh sách này đặc biệt là Thi Thư Lễ Nhạc) Người đọc sách nên lưu tâm suy nghĩ đến chủ ý của thánh nhân khi sáng tạo kinh sách, những điểm thánh nhân đã khổ tâm, các lý do mà thánh nhân đã đạt thành thánh nhân, kế đến các lý do mà bản thân mình chưa đạt đến mức độ của thánh nhân, các lý do mà bản thân mình chưa có thể thông hiểu, và truy tìm ý nghĩa của từng câu một. Ban ngày thì đọc thành tiếng, hưởng nếm hương vị sâu xa của kinh sách, ban đêm phản tĩnh để lòng yên tĩnh lắng xuống, thanh thản tự nhiên để lại những điểm còn nghi ngờ chưa sáng tỏ. Nếu như người đọc sách biết có tư thế thận trọng như vậy có lẽ sẽ hiểu được chủ ý của thánh nhân và các điều đã nói ở trên.”
Trình tử lại nói “Người học nên xem những câu hỏi của các đệ tử trong sách như câu hỏi của chính mình và cần phải nghe nội dung trả lời của thánh nhân một cách thân thiện bằng tai của mình ở hiện tại, nếu làm như vậy có lẽ tự nhiên sẽ hiểu được ý muốn truyền đạt của thánh nhân. Nếu như Khổng tử và Mạnh tử dù có sống lại vào thời nay thì cũng giảng dạy nội dung như đã được trả lời ở trong sách, không hề khác. Nếu như cứ lập đi lập lại việc tìm hiểu và hưởng nếm hương vị các ý nghĩa trong sách này (tức Luận Ngữ), tự nhiên sẽ thấm nhuần và tính chất hậu thiên (tức tính chất có được do học hỏi, khác với tính chất bẩm sinh trời cho) có lẽ sẽ được hình thành.”
Trình tử lại nói “Nếu như đọc sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thì cần phải đọc cho thật kỹ, nhuần nhuyễn và nghiền ngẫm ý nghĩa của sách. Cần phải xem lời của Khổng tử thiết thực đối với bản thân chứ không phải đơn thuần chỉ là nội dung của trường hợp xảy ra trong sách. Nếu đọc kỹ 2 quyển sách này và có thể xem như thiết thực đối với bản thân thì cũng đủ để sống hết cả cuộc đời.”
- Giải thích đặc điểm Luận Ngữ của Jinsai
Jinsai nghĩ rằng sách Luận Ngữ đưa ra các nguyên tắc căn bản của đạo học (tức Khổng học) cho muôn đời. Lời của sách rất chính đáng thích hợp và nhất quán từ bắt đầu cho đến cuối, 1 chữ cũng không dư và cũng không thể thiếu đi 1 chữ.
Luận Ngữ bao gồm hết cả nội dung của đạo, và giúp cho việc học đạt được đỉnh cao nhất. Giống như trời đất to rộng vô biên mà con người ở trong đó không thể giác ngộ sự to rộng của trời đất. Đạo cũng như trời đất, muôn đời không thay đổi và chắc chắn lan rộng đến mọi nơi trên thế giới. Đạo thật là vĩ đại làm sao!
Khi thuật lại nội dung của đạo, thánh nhân lấynhân仁làm gốc rễ, trí智làm trọng yếu, lấy nghĩa 義 làm bổn phận, sứ mệnh, và lấy lễ làm trợ lực.
Khi giảng dạy để khuyên bảo người khác, thánh nhân giảng “Hãy học văn文(kinh sách) cho thậtrộng, và thực hành điều đã học theo lễ.” (bác học ư văn; ước chi dĩ lễ) (Bài 25 thiên 6 Ung Dã) hoặc “Giảng dạy 4 điều: văn (kinh sách), hành (thực hành), trung (tận tâm, hết sức), tín (sự tin cậy, tín nhiệm)” (Tử dĩ tứ giáo:văn, hạnh, trung, tín)” (Bài 24 thiên 7 Thuật Nhi). Tổng kết lại, Khổng tử nói “Đạo của ta chỉ có một lẽ mà thông suốt cả”(Ngô đạo nhất dĩ quán chi) (Bài 15 thiên 4 Lý Nhân).Mục tiêu của thánh nhân chỉ có bao nhiêu đó, dù sao này có thánh nhân nào khác xuất hiện cũng không thể giảng dạy nội dung ra ngoài nội dung nói trên.
Các Nho gia đời Tống khi giảng dạy Luận Ngữ xem nhân nghĩa là lý理 (lý lẽ), họ không hiểu nhân nghĩa仁義chỉ là 1 tên gọi của đức徳, và họ định nghĩa trung tín忠信là tác dụng(dụng用) và không nghĩ trung tín là 1 tác dụng (hiệu quả) rất quan trọng. Bi thảm hơn nữa là có người cho rằng sách Luận Ngữ không đủ nên họ vay mượn từ Phật học hoặc học thuyết của đạo giáo (tức Lão Trang) để làm căn cứ cho chủ trương của họ(ý nói Tống Nho, tiêu biểu là Chu Hy). Rất hiếm người không phải là tội nhân đối với Khổng học.
- Jinsai đánh giá Luận Ngữ: sách chí cực tối thượng đứng đầu trong vũ trụ
Duy Trinh (tức Jinsai) lại nói “Trước thời Khổng tử, pháp chế giáo hóa (chế độ và phương pháp giáo dục) đã được xây dựng khá đầy đủ nhưng học thuyết chưa được phát triển nên đạo đức chưa được mọi người ý thức đầy đủ.
Sau thời Khổng tử, đạo đức và học vấn mới được phát triển đầy đủ.Nhờ đó, các học giả ngàn đời sau mới biết thực tiễn theo nhân nghĩa tất cả đều lấy nghĩa lý để tách rời ra khỏi học thuyết bói toán và quỷ thần. Do đó có thể nói nhờ phu tử mà việc học khai tịch (mở) ra một thời đại mới.
Mạnh tử đã trích dẫn lời của Tể Ngã, Tử Cống và Hữu Nhược để nói “(Phu tử) tài giỏi ưu việt hơn vua Nghiêu, vua Thuấn rất xa (Bài 2 chương 3 Công Tôn Sửu thượng, Mạnh Tử) và “Từ lúc nhân loại xuất hiện không có ai có nhân cách phong phú như Khổng tử”(cùng trong bài trên). Các đệ tử này tiếp xúc gần gũi với phu tử nên thực tế biết được sự ưu việt của ông hơn người khác và đã diễn tả như trên. Đó là lý do mà tôi quả quyết sách Luận Ngữ là sách chí cực tối thượng đứng đầu trong vũ trụ.
Những người đời sau từ thời Hán, thời Đường tất cả đều biết lục kinh quý trọng nhưng lại không biết sách Luận Ngữ quý trọng hơn và nội dung cao thâm vượt trội hẳn lục kinh.
Có người bắt đầu bằng kinh Dịch, thiên Hồng Phạm của kinh Thư hoặc có người bắt đầu bằng sách Đại Học hoặc sách Trung Dung bởi vì họ không biết sách Luận Ngữ là sách làm rõ ràng đạo là gì, xây dựng các lời khuyên từ đầu đến cuối nhất quán không có điểm nào đáng tiếc, không có sách nào có thể sánh bằng.
Kết cuộc việc tạo ra người trong thiên hạ không hiểu được đạo của phu tử là do nguyên nhân vừa trình bày ở trên. Tôi nhờ ơn phước thần của trời nên đã được mở mắt bằng 2 bộ sách Luận Ngữ và Mạnh Tử, nội dung học vấn đã bị quên lãng trên ngàn năm. Do đó, ở đây tôi thuật lại nội dung suy nghĩ của bản thân, không che dấu điều gì bởi vì tôi tin rằng nội dung này không phải là độc đoán của riêng tôi.
- Đạo phải đúng phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng ở mọi nơi ở mọi lúc và con người không thể xa cách đạo dù trong giây lát ngắn ngủi. Cần đọc Luận Ngữ với quan điểm này mới hiểu được cái hay của sách.
Duy Trinh (tức Jinsai) lại nói như sau.Đạo nhất định phải đúng và rõ ràng minh bạch hơn tất cả mọi thứ đồng thời dễ biết và dễ hiểu, dễ áp dụng ở bất cứ địa điểm nào trên thế giới, và không thể cách rời xa bản thân con người trong giây lát. Vì vậy đạo không khó biết, không khó hiểu nhưng khó giữ gìn (nghĩa là tuân theo trong đời sống). Nếu không khó giữ gìn thì cũng khó đối với việc chỉ biết vui thích với đạo.
Thứ cao xa không thể vói tới không phải là đạo.Thứ được ẩn cất dấu trong góc xó, mọi người không thể biết đến thì cũng không thể là đạo. Bởi vì thứ này không phải là đạo mà con người không thể cách rời trong giây lát khi ở bất cứ nơi nào trên thế giới hay có thể áp dụng cho bất kỳ lúc nào cho đến vạn đời sau.
Thứ mà trong 10 người không thể hiểu nhưng chỉ có 1 người có thể hiểu biết được thì không phải là đạo.Thứ 10 người không thể nhưng chỉ có 1 người có thể áp dụng thì không phải là đạo không thể cách rời trong giây lát cho suốt cả vạn đời về sau. (a)
Nếu như biết được đạo lý nói trên thì chúng ta có thể biết đức của phu tử cao và siêu việt hơn các thánh nhân thông thường, và đạo của Khổng tử cao, vượt trội hơn trong mọi thời đại.(b)
Trong sách Trung Dung viết “Vào ngày xưa của 3 thời đại Hạ, Ân và Chu không có sai lầm, trong thiên hạ rộng lớn cũng không có việc trái ngược với đạo. Hỏi quỷ thần vô hình rằng đạo có đúng không, quỷ thần cũng cho rằng đúng. Dù cho các thánh nhân của 100 đời sau cũng không do dự ngần ngờ cho đạo nói trên là đúng.”(Chương 24 sách Trung Dung). Đây là nội dung ca ngợi đức và sự thành công việc học của Khổng tử.
Các học thuyết khác quá cao xa người thường không thể vói đến, và được cất dấu trong 1 góc không thể biết đến.Nếu lấy tiêu chuẩn của 3 thời đại ngày xưa mà phán đoán thì đạo đó sai lầm. Đem áp dụng thử vào xã hội con người thì trái ngược đạo lý không thể dùng được. Dùng các học thuyết này để suy đoán các cảm tình của con người, nguyên lý tự nhiên của sự vật thì thấy tất cả đều không nhất trí trùng hợp.
Trong vũ trụ vốn không có những nguyên lý như các học thuyết này chủ trương hoặc đề xướng.Dù cho đạo có cần phải nói quanh co khó hiểu cũng phải ở mức độ nào đó có thể chấp nhận được.Một khi đến cực hạn của độ cao chắc chắn phải trở lại vị trí thấp hơn, và 1 khi đã tiến đến nơi tận cùng xa thì phải quay lại chỗ gần.Khi trở lại nơi thấp và gần thì chủ trương của học thuyết mới trở nên thực tế. Bởi vì những nội dung thấp và gần với con người thì không bao giờ thay đổi và con người mới có thể sinh sống với những nội dung đó; còn đối với những điều cao xa thì không phải là nội dung con người có thể sinh sống với chúng hàng ngày. Bởi vì trình độ thấp và gần mà người đời gọi vốn không phải thật sự thấp và gần mà các nội dung này rất bình thường, có nghĩa là không kỳ lạ hoặc cao siêu hoặc hiếm có. Thật ra đạo là những nội dung mà xã hội con người từ xưa đến nay căn cứ vào để vận hành, quản lý xã hội, là đạo đức mà con người cần phải tuân theo, và trong sinh hoạt hàng ngày trong bất cứ trường hợp hoặc cảnh ngộ nào cũng phải có hoặc tuân theo. Như vậy thì đạo làm sao có thể cao xa cho được?
Những người chán ghét những nội dung thân cận gần gũi, vui thích với các nội dung cao xa thì làm sao có thể kể lại thứ đạo không thể xa cách trong giây lát, và phổ biến thông dụng cho mọi nơi và mọi thời điểm cho đến muôn đời về sau. Người học trước hết phải biết điều này, có được như vậy mới có thể đọc hiểu sách Luận Ngữ.
- Sách Luận Ngữ giảng dạy những điều tốt lành và đạo được hàm chứa trong đó. Trái lại, sách Mạnh Tử giải thích đạo là gì và những điều tốt lành được hàm chứa trong đó.
Duy Trinh lại nói như sau. Người có ý định học đạo của Khổng tử và Mạnh tử (tức đạo Khổng Mạnh) cần phải biết điểm chung và điểm khác nhau của 2 sách này. Thỏa mãn được điều kiện này, chủ ý căn bản của Khổng tử và giải thích của Mạnh tử tự nhiên sẽ trở nên minh bạch rõ ràng. Bởi vì có 2 điều quan trọng trên đời này, đó là đạo và lời khuyên tốt lành.Đạo là gì?Là nhân nghĩa.Lời khuyên tốt lành là gì?Là việc học.
SáchLuận Ngữ chuyên giảng dạy những lời khuyên tốt lành.Đạo được chứa đựng trong những lời khuyên tốt lành này.Sách Mạnh Tử chuyên giải thích đạo, các lời khuyên tốt lành được chứa đựng trong đó.Tại sao vậy? Lý do như sau.
Đạo có đầy trong vũ trụ (nghĩa là chỗ nào nào trong vũ trụ đều có hiện diện của đạo, giống như quy luật tự nhiên) và quán triệt từ xưa đến nay, không có chỗ nào mà đạo không tồn tại, không có giây phút nào mà không có tác dụng của đạo (giống như quy luật tự nhiên).Đạo hoàn hảo.Tuy nhiên, đạo không thể làm con người tự mình biết hướng về điều thiện. Do đó, để làm sáng tỏ đạo đức mà làm người cần phải luôn luôn gìn giữ tuân theo, thánh nhân đã đề xướng ra nhân nghĩa, thông qua kinh Thi, kinh Thư, Lễ Ký, kinh Nhạc để dạy con người thành thánh nhân hoặc hiền nhân (Sorai chủ trương: thánh nhân là do bẩm sinh, không thể đạt được bằng việc học), và kết quả tạo ra nền tảng cơ sở để thế giới con người được sống hòa bình muôn đời, đều là do công ơn của thánh nhân. Vì lý do này mà phu tử chuyên thuyết giảng các lời khuyên tốt lành, và đạo được bao gồm trong đó.
Đến thời đại của Mạnh tử vì cách xa thời đại của thánh nhân (tức Khổng tử) nên giá trị của đạo bị che lấp, các học thuyết dị đoan xuất hiện nhiều và rối loạn như tổ ong bị chạm phá, các học phái khác cho rằng học thuyết của mình mới thật sự là đạo, không có ai thống nhất được các học thuyết này. Do đó Mạnh tử mới đề xướng nhân và nghĩa và sau đó tuyên bố trong nhân gian. Giống như ban ngày thay thế cho ban đêm; ấm áp thay thế cho lạnh rét, không có thiên lệch, chiếu sáng như mặt trời và tinh tú làm cho mọi người không còn chỗ nào để lạc lối. Trong suốt 7 chương (mỗi chương chia là thượng và hạ, tổng số 14) của sách, ông giảng giải dọc ngang (sâu và rộng); đôi lúc lời nói có vẻ mâu thuẫn nhau nhưng không có điểm nào là không lấy nhân nghĩa làm chủ ý. Nội dung sách giảng giải cần nên giữ nhân nghĩa trong lòng để nuôi dưỡng và bổ sung bản tính, khuếch đại nhân nghĩa hoặc lấy nhân(yêu thương)làm cơ sở và hành động theo nghĩa(chính đáng), thật ra đó là những lời khuyên dạy tốt lành. Do đó, sách Mạnh Tử mặc dù chuyên thuyết giảng về đạo nhưng trọng tâm của nội dung chứa đựng các lời khuyên dạy tốt lành.
Ngôn từ của 2 sách Luận Ngữ và Mạnh Tử mặc dù khác nhau nhưng nội dung trên thực tế cả 2 bổ sung cho nhau. Đó là điểm chung của 2 sách. Đồng thời điểm trọng yếu của 2 sách cũng là mục đích của việc học.Nếu không có nhận thức nói trên thì dù có cố gắng học thế nào cũng không thể bước vào trong cửa học thuyết Khổng tử và Mạnh tử.Tôi mong mỏi người học nên lưu ý điểm này.
- Giải thích mục đích đề xướng “bản tính con người vốn thiện” của Mạnh tử và tại sao Khổng tử đã không đề xướng
Duy Trinh lại nói tiếp. Mạnh tử là người đầu tiên đề xướng bản tính con người vốn thiện để làm cương lĩnh cho đạo học (Nho học) cho muôn đời sau. Tại sao Khổng tử đã không đề xướng chủ trương này? Đó là bởi vì nếu như thực hiện theo lời khuyên dạy của Khổng tử thì bất cứ ai cũng có thể trở thành thánh nhân hoặc hiền nhân (người tài đức). Đó là mục đích của Khổng tử nên không cần thiết luận bàn về việc bản tính con người lúc sinh ra là xấu hay vốn thiện, không có chủ trương tính vốn thiện cũng không sao. Do đó, Khổng tử nói “Tính tương cận, tập tương viễn” (bản tính bẩm sinh của con người gần gũi giống nhau nhưng do trình độ tập luyện, tu dưỡng sẽ phát sinh cách biệt to lớn) (Bài 2 thiên 17 Dương Hóa, Luận Ngữ). Khoảng cách giữa đại chúng và vua Nghiêu, vua Thuấn to lớn vô cùng nhưng Khổng tử lại nói là tương cận(gần nhau). Ý của Khổng tử trong lời nói này là ý trong câu nói “Con người không chừa ai cũng có thể trở thành vua Nghiêu, vua Thuấn”của Mạnh tử (Bài 2 chương 12 Cáo Tử hạ, Mạnh Tử). Do đó, mặc dù không nói “bản tính con người vốn thiện” nhưng “tính vốn thiện của con người” đã tự nhiên được hàm chứa trong lời nói trên của Khổng tử. Bởi vậy thật sai lầm nếu nói Khổng tử không đề cập đến việc “bản tính con người vốn thiện”.
Tôn chỉ của Mạnh tử vốn là nhân nghĩa.Lý do Mạnh tử đề xướng học thuyết “bản tính con người vốn thiện” là để cứu giúp những người “tự hủy hoại mình” với mục đích làm căn cứ cho mục tiêu tu dưỡng cho bản tính bản thân được tốt đẹp hơn thôi.
Tôi nghĩ rằng trên đời này không có gì quý hơn đạo, và kế đến là những lời khuyên tốt lành. Việc con người thành đạt được đạo và tiếp thụ được những lời khuyên tốt lành là nhờ bản tính tốt của con người. Nếu như bản tính con người vô tri như chó như gà thì dù đạo có tốt lành đến đâu cũng không thể vào cửa của đạo được, và dù lời khuyên có tốt lành đến mức độ nào cũng không thể tuân theo được. Tuy nhiên nhờ bản tính con người vốn tốt, vốn thiện nên việc thành đạt được đạo hoặc việc tiếp thụ những lời khuyên tốt lành mới dễ dàng. Đây là lý do Mạnh tử đề xướng học thuyết “bản tính con người vốn thiện” dành cho những người “tự hủy hoại mình”. Bởi vì không phải “bản tính con người sinh ra vốn thiện” mà không cần những lời khuyên dạy tốt lành.Tại sao vậy? Bởi vì nếu chỉ giao phó cho bản tính bẩm sinh thì con người có thể chỉ là 1 con người bình thường, chỉ là 1 con người ngu muội, và nếu không may có thể trở thành như vua Kiệt, vua Trụ. Do đó, Mạnh tử nói “Nếu không bổ sung và phát triển bản tính vốn thiện của con người thì ngay cả việc phụng dưỡng cha mẹ, con người cũng không có thể thực hiện đầy đủ” (Bài 6 chương 3 Công Tôn Sửu thượng, Mạnh tử), và ông cũng nói “Nếu không bồi dưỡng nuôi nấng thì bất kỳ thứ gì cũng tiêu diệt”(Bài 8 chương 11 Cáo Tử thượng, Mạnh Tử). Hai lời nói trên, lời nào cũng nói lên ý “không thể chỉ trông mong vào bản tính bẩm sinh” mà không học tập tu dưỡng.
Việc cho rằng Mạnh tử đề xướng học thuyết “bản tính con người vốn thiện” là chỉ để làm tôn chỉ làm cho việc học đời sau trở thành không tưởng là do việc quá xem trọng bản tính bẩm sinh chớ không phải là chủ ý của Mạnh tử.
Ghi chú
(1) Cao Dao, Quỳ, Long là các vị quan của vua Thuấn. Cao Dao phụ trách về tư pháp, Quỳ phụ trách về âm nhạc, Long phụ trách về thông tin.
(2) Tiểu đề “Cương Lĩnh” khó hiểu nên người biên dịch đặt tựa khác để độc giả dễ hiểu hơn, hoặc có thể hiểu là “Cương lĩnh đọc Luận Ngữ”.
Nhận xét
(1) Chúng ta có thể thấy Jinsai chịu ảnh hưởng của Trình tử rất sâu đậm về cách đọc, cách học sách Luận Ngữ và Mạnh tử. Trong “Cương lĩnh” ông chỉ trích dẫn lời của Trình tử.Tuy nhiên phải công nhận đúng là cách đọc sách hữu ích.
(2) Nội dung của đoạn(a) (“Thứ mà trong 10 người…vạn đời về sau”) cho chúng ta thấy, nội dung của đạo Khổng không phải là quy luật tự nhiên hoặc lý lẽ hoặc chân lý vĩnh cửu như Tống Nho chủ trương mà chỉ là một cơ sở giáo dục rất căn bản cho sinh hoạt của con người. Nghĩa là giống như Ogyu Sorai chủ trương, đạo Khổng là do các 7 vị tiên vương sáng suốt là Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn vương, Võ vương và Chu Công Đán lập ra để an dân.
(3) Nhận xét về nội dung của đoạn (b) (Nếu như biết được đạo lý…trong mọi thời đại.):Thật ra, đạo Khổng là do Khổng tử ghi chép và đút kết lại từ đạo của 7 vị tiên vương như Sorai giải thích.Chính Khổng tử cũng nói chỉ thuật y lại chứ không có tạo thêm ra (Bài 1 thiên 7 Thuật Nhi, Luận Ngữ: “Thuật nhi bất tác”; Chương 30, Trung Dung: “Trọng Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn”).
Nguyễn Sơn Hùng
Biên dịch 12~15/11/2023 khi du lịch ở Úc
Đánh máy, xem lại tháng 10/2025
Tài liệu tham khảo
- Kaitsuka Shigeki (1983): Itô Jinsai, Danh Tác của Nhật Bản 13, Chuokouronsha
- Itô Jinsai: Luận Ngữ Cổ Nghĩa (nguyên văn)
- Ogyu Sorai: Luận Ngữ Trưng, Ogawa Tamaki dịch chú (1994), Heibonsha.
Tâm tình Gia đình Sư Phạm
(Chúc Thọ GS.Doản Quốc Sỷ 100 tuổi,ảnh báo Người Việt )
TÌNH
28 thg 10, 2025
Thứ Hai 27/10/2025 Hành trình đi thăm Tp.Biên Hoà
Bữa cơm trưa tình nghĩa







.jpg)


