30 thg 6, 2025

TIN BUỒN VÀ PHÂN ƯU ; CGS Hồ Thị Đậm - SPSG khóa CT Tạ Thế 26/6/2025

 

Được Tin Trễ :

CGC HỒ Thị Đậm 

Là CGS.Sư Pham Saigon khóa Cấp tốc  đã  tạ thế ngày 26/6/2025 (AL ; 02/6/Ất Tỵ ) tại Kentucky (Mỷ )  hưởng  Thượng tho;  88 tuổi .

Xin Thành Kính Phâu Ưu Cùng Tang Quyến

Cầu Nguyện Cho Hương Hồn Người Quá Cố Được AN NGHỈ MIỀN CỰc LẠC


Hồ Xưa chuyển tin


Xem Thêm :GIỚI THIỆU SÁCH HỌC TIẾNG VIỆT MỚI IN CỦA CGC .HỒ THỊ ĐẬM

Vườn Thơ Mới Kỳ 173 - Bài Xướng : QUÊ TÔI (THT )

 

Xướng:

Quê tôi

Quê tôi xứ Bưởi buổi chiều 
Mặt nước Sông Đồng chẳng gợn ba 
Châu Thới hoa rừng khoe sắc thắm
Bửu Long chim chóc lượn tầm xa 
Nhìn người lưu lạc nơi xa xứ
Thấu hiểu cho ai nỗi nhớ nhà 
Ao ước một ngày hồi cố quốc
Dạo quanh mái ấm tỉnh Biên Hoà
THT 

ba : sóng nước

Họa 1:

Linh Sơn Tiên Thạch Tự 
靈山   


Cao vút núi xanh dưới nắng tà
Êm đềm ngoạn mục bất phong ba 
Trang nghiêm Thạch Tự cao vời vợi
Hoan hỉ sân chùa đón khách xa 
Rộn rịp viếng thăm nơi cổ tự
Thảnh thơi thư giãn dưới hiên nhà 
Thập phương bá tánh đều cung kính
Thí chủ vãng lai chốn dĩ hòa 
 PTL

Thạch tự: Linh Sơn Tiên Thạch Tự 靈山    còn được gọi với nhiều cái tên khác nhau như chùa Bà, chùa Phật hoặc chùa Thượng.

Chùa Bà là ngôi chùa cổ nhất trong số các chùa núi Bà Đen ở Tây Ninh, có tuổi đời lên đến 300 năm.

Hai vị thiền sư đầu tiên khởi công xây dựng ngôi chùa này là Thiền sư Đạo Trung và Thiền sư Thiện Hiếu.

Dĩ hòa: dĩ hòa vi tiên 以和為先

Dĩ: Lấy, dùng

Hòa: êm thuận với nhau. 
Vi: làm.
Tiên: trước.

Dĩ hòa vi tiên là lấy sự hòa thuận làm trước hết.

cổ tự 古寺: chùa lâu đời

Họa 2:

Quê Tôi 

Chiều xuống quê tôi dưới nắng tà
Dòng sông êm ả nét thu ba
Núi Bà sừng sửng mây che phủ
Róc rách suối vàng tận đỉnh xa
Mái ngói chùa trung Tiên Thạch Tự
Tăng ni tự viện một ngôi nhà
Thập phương bá tánh thường chiêm ngưỡng
Giới luật đồng tu giữ lục hòa
Hương Lệ Oanh VA

Lục hòa là 6 giới cấm của người tu sĩ phải giữ. Sau nầy phật tử tại gia cũng tự giữ cho mình như vị tu sĩ tùy theo người có thiện tâm. 
Lục hòa là sáu phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm.

Thân hòa cộng trụ: sống chung trong một tập thể, thường nên chiếu cố giúp đỡ lẫn nhau.
Khẩu hòa vô tranh: khuyến khích khuyên bảo cùng nhau làm thiện, dứt trừ làm ác.
Ý hòa đồng sự:  cùng nhau bàn bạc cho ra lẽ và vui vẻ chấp nhận.
Giới hòa đồng tu: cùng nhau tu tập theo giới luật chung đã được đặt ra
Kiến hòa đồng giải: lý đạo đã thông xin chia sẻ cùng mọi người, cùng nhau tu tập.
Lợi hòa đồng quân:  bình đẳng trong đồng đẳng. 

Họa 3:

Hoài cảm

Mỗi lúc chiều sang ngắm nắng tà
Thương đời gian khổ lắm bôn ba.
Chạnh buồn đất khách thân già lão,
Vọng tưởng hồn quê núi khuất xa.
Tím ngắt lục bình loang loáng sóng,
Thiết tha chim quốc nhớ nhung nhà.
Năm dài tháng rộng tình vương vấn,
Ai đó tri âm mấy vận hoà...
Minh Tâm

Họa 4:

Quê tôi

Quãng Trị quê nghèo đượm nắng tà
Mươi phần sỏi đá, ruộng gần ba
Người dân bản xứ cam đành với
Ngọn Gió Lào  khô nỗi xót xa
Thạch Hãn chia dòng xuôi Cửa Việt
Hiền Lương cản lối cách quê nhà
Muôn đời Ái Tử hằng vun đắp
Vượt khó cùng xây mộng thái hòa.
TQ
June 14, 2025

Họa 5:

Nhớ nhà

Lặng ngắm chiều rơi dưới nắng tà
Chim trời vỗ cánh vọng âm ba
Mấy năm viễn xứ hồn hoang lạnh
Một phút suy tư cảnh xót xa
Nhớ mái tranh nghèo un khói bếp
Thương tà áo trắng sống quê nhà
Mơ ngày đất nước thanh bình cũ
Ta sẽ về thăm hưởng thái hòa
Nguyễn Cang
Jun. 14, 2025

Mời Xem :

Phát hiện đột biến gene giúp con người sống khỏe với chỉ ngủ 3 giờ mỗi đêm

 

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Proceedings của Viện Hàn lâm Khoa học quốc gia Mỹ, xác định đột biến SIK3-N783Y trong gene SIK3 – một gene đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa chu kỳ ngủ - thức.

Phát hiện này bổ sung vào kho tàng nghiên cứu ngày càng phong phú về những người ngủ ít tự nhiên (Natural Short Sleepers - NSS) – những người có thể hoạt động bình thường với lượng giấc ngủ ít hơn người bình thường mà không gặp vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.

Trước đây, các nhà khoa học từng xác định 4 gene có liên quan đến đặc điểm hiếm gặp này gồm: DEC2, NPSR1, GRM1 và ADRB1.

Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa học đã phân tích ADN của những tình nguyện viên tự nhận là người ngủ ít tự nhiên. Trong số đó, có một phụ nữ 70 tuổi khỏe mạnh, cho biết, bà chỉ cần ngủ ba giờ mỗi đêm. Tuy nhiên, thiết bị theo dõi giấc ngủ cho thấy bà thực tế ngủ trung bình khoảng 6,3 giờ mỗi đêm. Khi tiến hành giải trình tự toàn bộ vùng mã hóa của bộ gene, các nhà khoa học đã phát hiện đột biến SIK3-N783Y.

Để xác nhận ảnh hưởng của đột biến này, nhóm nghiên cứu đã tạo ra những con chuột biến đổi gene mang đột biến nói trên. Kết quả cho thấy chuột biến đổi gene ngủ ít hơn chuột bình thường khoảng 30 phút mỗi đêm. Sau khi bị thiếu ngủ có chủ đích, những con chuột này vẫn ngủ ít hơn đến 54 phút so với nhóm đối chứng, khẳng định vai trò của đột biến trong việc rút ngắn thời gian ngủ.

Gene SIK3 mã hóa cho một loại enzyme kinase – enzyme có chức năng chuyển phân tử phosphate lên các protein khác, từ đó điều chỉnh hoạt động của chúng. Đột biến N783Y khiến enzyme này thay đổi cấu trúc, làm suy giảm khả năng thực hiện chức năng vốn có, ảnh hưởng đến các quá trình hóa sinh tại khớp nối thần kinh (synapse) – nơi các tế bào thần kinh trao đổi tín hiệu – và tác động đến thời lượng giấc ngủ.

close

Nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học Mỹ và Trung Quốc cho biết, phát hiện này giúp nâng cao hiểu biết về nền tảng di truyền của giấc ngủ. Việc hiểu rõ cách đột biến SIK3-N783Y làm giảm nhu cầu ngủ tự nhiên có thể mở ra các chiến lược điều trị mới nhằm cải thiện hiệu quả giấc ngủ và điều trị các rối loạn như mất ngủ.

Người ngủ ít tự nhiên không chỉ sống khỏe với thời lượng ngủ ngắn, mà còn thường cảm thấy mệt mỏi nếu họ ngủ nhiều hơn bình thường. Dù chỉ ngủ 4 đến 6 giờ mỗi đêm, họ không bị buồn ngủ vào ban ngày, hay suy giảm nhận thức, cho thấy yếu tố di truyền đặc biệt đang điều chỉnh nhu cầu nghỉ ngơi của cơ thể.

Thông thường, các chuyên gia khuyến cáo người trưởng thành nên ngủ từ 7 đến 9 giờ mỗi đêm để đảm bảo sức khỏe. Với phần lớn người, thiếu ngủ làm tăng nguy cơ mắc các bệnh mãn tính như tiểu đường, tim mạch và sa sút trí tuệ. Tuy nhiên, đột biến SIK3-N783Y có thể giúp một số người kháng lại những ảnh hưởng tiêu cực này.

Các nhà khoa học hy vọng, việc giải mã “món quà di truyền” của những người ngủ ít tự nhiên sẽ mở ra hướng phát triển các loại thuốc mới để điều trị rối loạn giấc ngủ. Hiểu được cách mà một số đột biến gene có thể làm giảm nhu cầu ngủ mà không ảnh hưởng đến sức khỏe sẽ giúp cải thiện hiệu quả giấc ngủ và giảm thiểu tác hại của tình trạng thiếu ngủ.


HNPĐ

29 thg 6, 2025

THIỀN ĐỊNh - Đào Anh Dũng

 Một người bạn trên Facebook của tôi nhìn bức ảnh tôi đang ngồi thiền và nói rằng thật kỳ lạ vì tôi mỉm cười trong khi thiền. Đây là câu trả lời của tôi.



Hương Muộn - Thuyên Huy

HƯƠNG MUỘN

Chuyện của những người có người thật nhưng tình tiết, nhân vật và bối cảnh không thật




1.

Chiều thứ bảy, Sài gòn nắng, cái nắng của những ngày cuối hạ đầu thu, cái nắng bâng khuâng, lơ đảng của trời ngấp nghé giao mùa, đường phố vẫn là đường phố ngựa xe xiêm áo, quần là áo lụa.

Định vào thư viện nhưng thôi, Đăng tẻ ngang qua đường Lê Lợi, thả bộ lên hướng quốc hội, tới góc đường ngã tư không biết chiếu phim gì mà người ta đứng đông nghẹt trước rạp Casino, nhìn tới nhìn lui, chờ đèn băng qua bên kia tiệm kem Mai Hương, nhưng bất chợt đứng khựng lại, cô gái áo dài tím nhạt, khăn thu màu lam nhạt quàng cổ từ bên kia đường vừa tới, cũng khựng lại, hai người nhìn nhau ngờ ngợ, anh buột miệng “phải chị Khánh Vy, hông?”, cô nàng đầu gật đầu “Đăng hả?”.

2.

Nhà nghèo, ở cuối ấp chợ xã, ba Đăng mất sớm, má tần tảo, lam lũ trồng chừng ba bốn chục luống khoai lang Như Ý trên miếng đất xéo cuối ấp chợ xã, bán cho bà con trên chợ, cũng may nữa là có bạn hàng từ dưới quận lên mua mảo khi có nên hai má con tạm có đủ ăn đủ mặc, ít khi bị thiếu trước hụt sau.

Trường tiểu học xã gần nhà, Đăng học giỏi, lễ phép dạ thưa, thầy cô ai cũng thương, đám nhỏ bạn quê, bạn chợ đều mến. Cuối năm lớp Nhất, cả chợ chỉ có một mình Đăng thi đậu vào trường trung học tỉnh, má Đăng mừng quá đổi nhưng lại lo cũng không thua gì, có chút xíu rồi lên tỉnh, xa nhà, đất lạ, một thân một mình làm sao bà an tâm, lẩm nhẩm suy tới nghĩ lui, bao nhiêu ngày rồi mà cũng chưa biết tính sao đây, nhìn con vui chơi, hỏi này hỏi kia mà rầu thúi ruột.

Một hôm cô Sen, cô giáo lớp Nhất của Đăng tới nhà thăm, chung vui trước khi về dưới An Tịnh nghỉ hè, mang theo gói quà to tướng mà cô thầy cả trường chung lo, như món quà thưởng Đăng thi đậu, má Đăng bùi ngùi, xúc động, cám ơn mà rưng rưng nước mắt, cô Sen thấy bà xem ra không được mừng trọn vẹn, có cái gì đó lấn cấn, cô hỏi ngay, bất ngờ quá, bà thú thiệt chuyện không biết kiếm cho Đăng chỗ ở trên tình, lạ ngắt lạ ngơ, bà có quen biết ai đâu, túng quá chắc phải nhớ tới bác từ dưới chùa, vì bác thường lên xuống trên đó.

Cô Sen, thở phào, nắm tay má Đăng, tưởng chuyện gì, bà đừng lo, mọi thứ để cô sắp xếp cho, cô có người dì bà con có chồng làm việc trên tỉnh, hai vợ chồng hiền hậu tử tế lắm, thuần đạo Phật nữa, rất thương người. Quà thầy cô cho nhiều lắm, nhất là mấy sấp vải trắng, xanh dương để may đồng phục và chồng vở, viết chì viết mực, cô Sen về rồi, nhắc là cô sẽ lo đúng ngày nhập học, an tâm, hai má con mở quà rồi bà khóc, Đăng không biết gì cũng thút thít khóc theo, rồi từ hôm đó trở đi, bà dặn dò anh ta mọi thứ, từ phép tắc chào hỏi, đi thưa về trình như ở nhà, ăn uống nhỏ nhẹ, không chơi đùa phá phách, phụ giúp việc nhà với người ta, nhắc đi nhắc lại bảo Đăng phải nhớ, làm sao mà anh nhớ nổi nhưng thói quen từ ngày lớn khôn được má dạy, làm quen rồi cho nên khỏi cần nhớ nhiều. Trước ngày tựu trường chừng hai ba ngày, cô Sen trở lên thật sớm, rồi cô trò đón xe đò lỡ dưới quận, lên tỉnh.

*

Trước ngày vào học một hôm, hai má con theo cô Sen lên tỉnh, mang theo cái rương thiếc nhỏ, đựng áo quần, tập viết và mấy thứ lặt vặt, thêm một chút tiền mặt mà cô Sen và má Đăng cho. Vợ chồng bà dì, dì Trâm ân cần, thăm hỏi má đủ thứ từ món ăn tới giấc ngủ, bảo má đừng lo gì hết, cứ yên lòng, để đó gia đình bà lo cho.

Nhà còn có hai chị em, chị Khánh Vy, năm này học lớp đệ Tứ, em Khánh Vân, cũng vừa đậu đệ Thất như Đăng năm nay. Má, cô Sen và Đăng vừa vào tới cổng rào thì hai chị em đã chạy úa ra, cúi đầu dạ chào, nắm tay cô Sen mừng reo tở mở, bà dì ra tới, hai chị em đứng lùi lại sau, nhìn Đăng cười cười, khi thấy anh khoanh tay cúi đầu chào, má Đăng ngại ngùng, không biết nói gì, bà dì nắm tay bà mời đi vào, má Đăng luýnh quýnh rối chân, cô chị Kháng Vy, chạy tới phụ bưng cái rương thiếc một tay với cô Sen, ba cô cháu nhìn Đăng nói gì đó, Đăng bẻn lẻn theo sau chân má vào nhà.

Cả nhà theo ra đưa cô Sen và má Đăng ra về, bà đỏ cay mắt rấm rứt hai tiếng cám ơn bà dì Trâm không biết bao nhiêu lần, làm cô Sen cũng rưng rưng, Đăng đứng nhìn, bà ôm con, rờ đầu rờ tay, bùi ngùi dặn Đăng nhớ lời má dặn, cô Sen ra đường đón xe lôi máy, rồi cũng phải về, xe lôi máy chạy đi, bà bật khóc, Đăng đứng chết trân ngay cổng rào, kêu lớn theo “má ơi, má ơi”, bật khóc ngon lành, Khánh Vân nhìn anh ta muốn khóc theo, chị Khánh Vy nắm tay Đăng vổ về an ủi, trời phố tỉnh chập chững chiều lên. Nhà ở quê đêm nay và cũng từ đêm nay má Đăng chỉ có một mình, thui thủi, ở đây xứ người Đăng cũng thui thủi một mình.

*

Nhà bà dì, căn biệt thư kiểu Tây, nằm gọn sau cái sân trước đầy hoa Sứ trắng, hàng rào gạch cao tới chừng nữa người, với cái cổng sắt sơn trắng, ở bên bờ nhánh sông chảy chia đôi phố tỉnh, trên đường tới trường không mấy xa, và con đường này cũng là đường xe đò lớn đi về.

Ông dượng, dượng Tín, làm chủ sự phòng tài chánh của ty Xã Hội tỉnh. Dượng Tín hiền lắm, cười nhiều ít nói, bà dì Trâm thì nhanh nhẹn, quán xuyến mọi thứ trong nhà, nói năng chưa hề lớn tiếng. Ông dượng đi làm bằng xe Vét – pa, còn có cái xe Citroen “con cóc” màu xám trong nhà xe. Cái phòng nhỏ nhắn, nằm sát bên cạnh phòng của chị Khánh Vy, cả hai đều có cửa sổ ngó ra vườn sau, con đường nhỏ lát gạch nâu giữa sân, đầy hoa Mười Giờ bao quanh hai ba gốc cây Dạ Lý, chờ tỏa hương đêm.

Đăng thừ người, rụt rè nhìn, ở một góc phòng, cái giường ngủ gỗ nâu trải nệm mỏng, cái bàn học có kệ để tập sách kề bên, cái tủ thấp nhiều hộc để quần áo, cái nào cũng mới, cứ nhìn mà chưa biết phải bắt đầu làm gì, thì bà dì Trâm tới, hai chị em theo sau lưng, bà từ tốn chỉ quanh “mấy cái này để cho con đó, con muốn sắp xếp như thế nào thì con làm nghe”, chị Khánh Vy bước vào “để chị chỉ cho”, Khánh Vân cũng ùa vào “em phụ nữa nghe”, bà dì cười gật đầu bỏ đi ra, mới đầu còn lo nhưng Khánh Vân, vừa làm vừa luôn miệng, líu lo chỉ hết cái này tới cái kia, dặn Đăng điều này điều nọ, phút giây bỡ ngỡ vụt qua, Khánh Vân lăng xăng nói cười, chuyện đi học chuyện đi chơi, chị Khánh Vy bổng dưng bật cười thành tiếng “con nhỏ này lộn xộn quá”.

Bữa cơm chiều, ngồi kế bên Khánh Vân, Đăng ngượng ngập, ăn không dám ăn, ông bà dì dượng thúc ăn tiếng một tiếng hai, hai chị em cũng vậy, cũng gấp cái này cái kia cho, ông bà dì dượng nhìn thằng nhỏ, nhìn hai chị em, buột miệng “tôi nghiệp”. Đêm đó, đêm đầu tiên xa nhà, xa má, Đăng cứ khóc, trằn trọc nhớ, nhớ mấy củ khoai lang nướng buổi sáng, nhớ đám gà con vàng óng, tíu tít theo chân con gà mẹ tìm mồi trên sân sau, nhớ ngọn đèn dầu má ngồi tập cho Đăng nhưng chữ viết đầu tay, nhớ cái áo màu đen bạc màu, cái nón lá rách cũ mèm của má đi tưới những luống khoai một sương hai nắng, nhớ tiếng trống tan trường, nhớ đủ thứ, nhớ tới mức ngủ thiếp đi.

Nhập học, quen dần với đám bạn cùng lớp, có đứa cũng từ làng xã xa lên, mầy mầy tao tao làm Đăng cũng nguôi ngoai, quen dần với phố xá. Buổi sáng đi học, trên đường tới trường, chị Khánh Vy đi với mấy chị bạn trước, Đăng và Khánh Vân nói cười theo sau, ngày này qua ngày nọ, giờ ra chơi, bên lớp con gái Khánh Vân chạy qua sân trường kiếm Đăng trước, rồi mới trở lại chơi với đám bạn gái đứng chờ xa xa.

Mấy tuần đầu, sáng thứ bảy nào cũng vậy, chị Khánh Vy chở Đăng bằng Honda ra bến xe ngoài chợ, trả tiền xe, sắp ngồi ghế ngay sau lưng bác tài xế nhắc anh lơ, nhớ ngừng cho Đăng xuống chợ xã, chị cũng không quên dặn, nhắc tới nhắc lui bảo Đăng nhớ kêu xe ngừng, chị đứng chờ cho đến khi xe chạy. Ở nhà quanh quẩn bên má, kể chuyện học chuyện ăn chuyện phố phường, má vui mừng khôn xiết khi nghe Đăng nói ông bà dì dượng thương nó nhiều lắm, chiều chủ nhật má Đăng đưa ra đường lộ, đón xe đò gởi theo trở lên tỉnh lại, nghe con nói mà bà mừng không biết bao nhiêu, cám ơn ông bà trời Phật nhưng cũng lo không biết bao nhiêu, món nợ ân tình sâu nặng này biết chừng nào mới trả được. Đăng cũng khá thông minh nên quen đường, cứ thả bộ bên lề bờ sông về nhà ông bà dì dượng không có gì khó.

Quen dần với lớp học với bạn bè, chừng đâu hơn hai tháng sau đó, sáng thứ bảy với ba bốn đứa bạn cùng lớp, cũng dân quê miệt dưới nhà Đăng, cùng đứng bên này cổng trường, chỗ xe đò lỡ dưới quận thường ngừng, đón xe, tới chỗ đứa xuống trước, đứa xuống sau, vậy thôi, riết rồi quen nước quen cái, không còn sợ sệt nữa, chị Khánh Vy cũng không cần chở tới chở lui.

*

Cuối hè năm đệ Tứ, Đăng chuyển về trường trung học dưới quận, năm nay vừa có thêm lớp đệ Tam, bốn năm nay bà thui thủi sớm hôm một mình, Đăng ở trên tỉnh buồn lắm, thương má nhiều lắm nhưng hai má con đành phải ráng mà chịu, nay có lẽ về dưới này thì tiện biết mấy, sáng đi chiều về má con sẽ hủ hỉ bên nhau trong những ngày tuổi đời còn lại của bà. Cô Sen đã lập gia đình và đổi về dạy dưới quê chồng đâu đó ở Trà Vinh, cô có đến từ giã má Đăng, gởi lại chút quà, nhắc Đăng ráng học.

Trước này nhập học chừng hơn mười ngày, Đăng trở lên tỉnh, cây phượng già gốc sân trường còn đôi chút hoa nở muộn, mùa hạ buồn, Đăng báo tin, cám ơn bà dì ông dượng chuyện chuyển về trường quận, hai chị em ngồi nghe, Đăng đứng khoanh tay báo tin mà nước mắt ràng rụa, Khánh Vân quay mặt không nhìn, cũng khóc. Chị Khánh Vy gượng cười, nụ cười buồn , ông bà dì không nói gì hơn, chỉ dặn là về dưới nếu cần gì, gặp khó khăn gì thì lên cho ông bà dì biết, vậy thôi.

Đăng thu xếp, sách vở, áo quần, những thứ lặt vặt của mình, vào cái rương thiếc và hai ba túi xách vải, Khánh Vân không còn lăng xăng “Đăng hởi Đăng ơi” nữa, đứng ở bên cửa phòng mình, nhìn qua buồn rười rượi. Chị Khánh Vy phụ tay, mang đồ ra cổng đón xe lôi máy. Nhìn lại căn phòng, một lần nữa Đăng bật khóc dù đã cố ngăn, ông bà dì dượng theo ra, Đăng cúi đầu xá ông bà ba xá thay ba lạy, mắt bà dì ngấn lệ, Khánh Vân và Đăng đứng bên nhau, nói với nhau gì đó, nhiều và nhiều lắm, xe lối máy chờ ngoài đường, xe chạy đi, Đăng không dám nhìn lại, sợ phải khóc nữa.

Bữa cơm chiều buồn, dường như không ai muốn ăn, ai cũng ngồi riêng một mình, lặng thinh, Khánh Vân thở dài, cái thở dài khó tả của cái tuổi vừa mới biết thương, thương gì đó, ai biết, căn nhà buồn theo.

Trước ngày tựu trường một hôm, hai má con đón xe lên tỉnh thật sớm, đến nhà một lần nữa nói lời từ biệt. Ông dượng đi làm không có nhà, trong phòng khách, má Đăng vẫn khúm núm nhà quê như lần trước lên có cô Sen, má sụt sùi cám ơn công ơn của ông bà dì dượng, bà cũng xá ba xá thay ba lạy, nói tiếng mất tiếng còn, nước mắt tuôn dài, bà dì ôm chầm lấy bà rồi cũng rưng ngấn lệ, chị Khánh Vy ngồi ở góc phòng khách cũng không kềm được xúc động, vut bỏ chạy ra ngoài mà nước mắt lưng tròng. Bên ngoài, Khánh Vân ngồi bên Đăng thật lâu mà không ai biết nói gì bây giờ, dù có biết bao nhiêu cái tuyệt vời của bốn năm muốn nói, nhìn nhau rồi nhìn ra sân, trời sáng một màu vàng hực nhưng hình như với họ chỉ là xám đen ảm đạm.

Rồi cũng phài chia tay, họ đi rồi, một lần nữa người buồn, căn nhà cũng buồn theo.

*

Trường mới, năm học mới, bạn bè mới, thầy cô mới, mọi thứ bề bộn, xe cộ sáng đi chiều về vài tháng mới tạm ổn, trước ngày đưa ông Táo mấy hôm, Đăng mượn cái xe Honda của người bạn cùng lớp, ban sơ thân tình, dân chợ quận, sáng chạy một mạch lên tỉnh, tới khúc quanh đường vào nhà Khánh Vân, lòng vui rộn rã gặp lại người xưa, nói xưa chứ mới đây mà xưa nổi gì. Dựng xe trước cổng, ngõ trước ngõ sau vắng tanh, cổng đóng kín không rộng mở như trước đây, ngờ ngợ, Đăng khẻ đập mạnh gọi vào trong , chờ, không lâu lắm, có chị gái chậm đi ra, Đăng đứng chết trân, gia đình của Khánh Vân đã dọn về dưới Sài Gòn mấy tháng nay rồi, căn nhà bán lại cho chủ mới, chị là người làm công, chỉ biết tới chừng đó thôi, chị nấn ná chờ xem còn hỏi gì thêm, Đăng ngẩn ngơ, cám ơn mà không nói thêm gì được nữa, chị cũng chào, bỏ đi vào, không ngó lại.

Đăng đứng dựa vào cái xe Honda, tưởng chừng như sắp ngã, thở dài nhìn con đường quen ngày nào, ngày hai đứa chân trước chân sau, “Đăng ơi Đăng hởi”. Là vậy rồi, thôi, lần sau cùng, chào không hẹn căn nhà của một trời kỷ niệm nhiều vui ,chưa thấy buồn. Đăng bỏ phố tỉnh đi, nơi này không còn gì để trở lại nữa, cũng không có lần nào gặp lại ông bà dì dượng và hai chị em từ ngày đó.

*

Xong mùa thi năm cuối Phú Thọ, chờ tốt nghiệp, thì má Đăng mất vì cơn bệnh sốt xuất huyết tái phát, không có dấu hiệu gì báo trước. Đành vậy thôi, anh đưa má về Thạnh Phước chôn bên cạnh mồ ba, bá má giờ sẽ có nhau ở một chốn bình yên miên viễn, đau đớn, quặn thắt biết chừng nào nhưng không khóc bù lu bù loa như ngày còn con nít, khóc mà nuốt lệ trong lòng, nổi lòng ôm mang từ đây. May mà còn đôi ba người bạn cũ của ba của má, Đăng nhờ họ trông coi giùm luôn hai nấm mồ, căn nhà ở chợ xã thì chú tư Biên, chủ cái xe lam chở người đi chợ quận về chợ xã mua lại, cái xe mà Đăng đi về suốt mấy năm học trường quận, chú sẽ lo bán miếng đất trồng khoai lang, chú giữ tiền bán được, sẽ giao lại, Đăng chào từ biệt, nói với vợ chồng chú, cứ xài đi đừng lo chuyện đó.

3.

Sáng chủ nhật, cũng cái nắng cuối hạ đầu thu, đường phố thưa người, còn ngày nghỉ làm, xuống xích lô đầu hẻm, con hẻm cụt khá rộng, gần cuối ngã ba Cao Thắng – Hồng Thập tự, Đăng lửng thửng thả bộ đi vào tới nhà, chưa tới cổng, cái cổng sắt sơn trắng, cao không hơn đầu gối, khiêm nhượng làm kiểng, che hờ che hửng cái sân trước nhỏ, đầy hoa Mười Giờ như những cụm hoa Mười Giờ của căn nhà trên phố tỉnh ngày nào, chị Khánh Vy nhanh ra, vừa giục anh vừa quay vào trong, cửa chính mở rộng, kêu lớn “má ơi, Đăng tới đây nè”, chưa dứt tiếng “đây nè” thì bà dì đã ngay trước thềm cổng, Đăng theo bên chị, cúi đầu, ba người mừng như nhau muốn khóc, bà nắm chặt tay anh “trời ơi, thằng Đăng đây hả con?”. Vào trong nhà, hai má con lăng xăng, hỏi hết chuyện này chuyện kia, nhất là chuyện năm sáu năm qua, anh ở đâu, anh làm gì, chưa hết câu này thì đã tới câu khác, Đăng nhìn quanh, không còn ai nữa, biết ý, bà cho biết Khánh Vân chở ông dượng đi mua gì đó ngoài chợ Sài Gòn, chắc cũng sắp về, bảo Đăng phải ở lại ăn cơm trưa mới được.

*

Có tiếng xe Honda vào sân, chị Khánh Vy kéo Đăng đi ra nhà sau, bà dì nhanh chân bước ra cười “cha hai cha con mua cái gì mà tay xách tay mang dữ vậy, tới giờ này mới về?”, ông dượng khệ nệ xách túi đi vào, Khánh Vân từ từ đẩy xe lên trên bậc thềm, ngay cửa sổ ngó ra đường, thấy bà dì cứ nhoẻn miệng cười cười không nói gì hết, ông dường cũng phì cười “cha bà này bữa nay lạ lạ à nghe”, bà vẫn vậy “vô nhà đi, có gì đâu, cười mà ông cũng không cho hả?”, Khánh Vân nhìn má mình lầm thầm “má bữa nay thấy lạ thiệt”.

Không đợi hai cha con dẹp đồ xong, bà bỏ ra nhà sau, cha con vẫn còn loay hoay cái này cái nọ, bà dì, chị Khánh Vy và Đăng đi lên, bà lên tiếng “cha con ông dòm đi, nhà có khách, ai đây nè”, hai người buông tay, quay lại, Khánh Vân chết trân, buột miệng “anh Đăng”, ông dượng mắt già đỏ hoe “thằng Đăng hả con?”, chỉ ngần đó, năm người không nói được tiếng nào, cứ nhìn nhau mà rưng rưng nước mắt.

Bữa cơm trưa nói nhiều hơn ăn, mặc tình cơm canh nguội lạnh, nói mà tiếc nuối, nói mà mừng vui, tên ai không nghe mà cứ “Đăng ơi Đăng ơi” như những ngày cũ, rộn rã tiếng cười, chuyện hôm qua còn dài, cả nhà hỏi, giữa năm đệ Tam trường quận năm đó, Đăng có trở lên tỉnh, lại nhà nhưng gia đình bà dì, ông dượng đi rồi, chủ mới không biết hiện ở đâu, buồn quá tưởng chừng như mất mát cái gì đó, không diển tả được, và cái buồn đó cứ theo mình suốt những năm sau, và cuối cùng, anh cho biết má đã mất. Nghe tin này cả nhà lặng thinh, bùi ngùi cố nén xúc động, chỉ có Đăng, lần này lại bật khóc.

Khánh Vân ra trường, đang dạy ở trường trung học Sương Nguyệt Ánh, chị Khánh Vy làm cho ngân hàng Pháp Á trên đường Nguyễn Huệ, ông dượng vừa nghỉ hưu trí năm nay. Tốt nghiệp Hóa học Phú Thọ, làm việc cho trung tâm Nguyên tử năng Đà Lạt chừng hơn một năm, giờ về lại Sài Gòn, vừa nhận việc ở công ty SAKYBOMI, bên bến Bình Đông, phường Rạch Cát vơi chức vụ trưởng phòng kiểm ngh iệm hai tuần nay, đang ở tại căn nhà mướn nhỏ gọn, ở trong cư xá hỏa xa Petrus - Ký, đi làm thì có xe đưa rước công nhân đi về.

Cơm nước xong, trời Sài Gòn nắng dịu, bảng lảng vào chiều, có gió và bụi lất phất màu phấn bay trên đường, đường đã tấp nập người xe, ở một góc vắng tại tiệm cà phê quen đường Nguyễn Thiện Thuật, nhìn ra đường, ngồi bên cạnh Đăng, Khánh Vân thấy lòng mình ngập cả một trời hương muộn, tiếng ai hát “tình ngỡ xa xưa nhưng tình bổng lại về” của một bài hát không nhớ tên, làm sống lại cái tuổi mới biết thương của những ngày xưa, những ngày có Đăng chung bước đến trường, chân sau chân trước, Khánh Vân nắm lấy tay Đăng, mĩm cười mà không biết nói gì cho trọn những gì mình muốn nói, có thêm một đôi tình nhân trẻ nữa trên đường phố Sài Gòn chiều nay, chiều Chủ Nhật.

4.

Phượng tàn, mùa Hạ đi từ lâu, đâu đó có chút gió thu lành lạnh, hai ba bữa nữa tựu trường, căn nhà trong cái hẻm cụt, góc ngã tư Cao Thắng – Hồng Thập Tự, giờ có thêm người ở, người của muôn năm cũ, người mà trong nhà ai cũng biết và cũng thương như đã thương như những ngày ở phố tỉnh năm đó, nhưng thương hơn, người xưa cảnh cũ làm căn nhà cũng vui lây.



Thuyên Huy

Bất chợt nhớ chuyện của một người, của một thời – xứ xa giữa thu 2025

  


Bác sĩ tiết lộ bài kiểm tra đơn giản bằng ngón tay cái có thể phát hiện vấn đề tim mạch như "quả bom hẹn giờ"

 Tiến sĩ Joe Whittington, chuyên gia y học cấp cứu đến từ California (Hoa Kỳ), cho biết mẹo kiểm tra bằng cách duỗi ngón tay cái qua bàn tay có thể cảnh báo nguy cơ cao mắc phình động mạch chủ.

Phình động mạch chủ là tình trạng động mạch chủ, mạch máu chính dẫn máu từ tim đến các phần còn lại của cơ thể, bị giãn hoặc phồng lên, có nguy cơ vỡ. Khi vỡ, người bệnh có thể bị xuất huyết nội nghiêm trọng và thường tử vong nếu không được phẫu thuật cấp cứu kịp thời.

Bác sĩ Whittington nói: “Hãy giơ lòng bàn tay lên và thử duỗi ngón tay cái càng xa càng tốt. Nó dừng lại ở phần lòng bàn tay? Hay nó vượt qua cả bàn tay như thế này? Nếu vượt qua, bạn đã dương tính với bài kiểm tra ngón cái - bàn tay”.

Nếu ngón tay cái vượt qua được mép bàn tay, điều đó có thể có nghĩa là các mô liên kết của bạn rất dẻo, theo ông giải thích, điều này cho thấy tính đàn hồi bất thường cũng xảy ra ở thành động mạch, làm tăng nguy cơ bị giãn hoặc phồng.

Ông trích dẫn một nghiên cứu năm 2021 đăng trên Tạp chí Tim mạch Hoa Kỳ, trong đó 60% những người bị phình động mạch chủ có kết quả dương tính với bài kiểm tra ngón cái - bàn tay. Nghiên cứu này thực hiện với 305 bệnh nhân phẫu thuật tim, bao gồm cả người mắc phình động mạch chủ.

Mặc dù phần lớn bệnh nhân phình động mạch không có dấu hiệu dương tính, những người dương tính lại có nguy cơ cao hơn rất nhiều.

Phần lớn các trường hợp phình động mạch không có triệu chứng cho đến khi vỡ. Tuy nhiên, nếu được phát hiện sớm qua kiểm tra sức khỏe định kỳ, bác sĩ có thể dùng thuốc huyết áp hoặc can thiệp khác để ngăn ngừa biến chứng.

Đây là bài kiểm tra: Giơ tay lên như thể bạn đang bảo ai đó dừng lại (1). Với lòng bàn tay phẳng, duỗi ngón tay cái xa nhất có thể qua ngón tay út. Nếu ngón tay cái chạm đến giữa lòng bàn tay (2) thì đó là bình thường. Tuy nhiên, nếu nó kéo dài qua mép bàn tay (3), các nhà nghiên cứu cho biết đây có thể là dấu hiệu của phình động mạch chủ và bạn nên đi kiểm tra

Khi có triệu chứng, bệnh nhân có thể gặp:

- Đau ngực, cổ hoặc lưng.

- Sưng đầu, cổ và tay.

- Ho, thở khò khè, khó thở.

- Ho ra máu.

Tuy nhiên, nếu bạn dương tính với bài kiểm tra ngón cái - bàn tay, đừng hoảng sợ, bác sĩ Whittington trấn an. “Bạn nên trao đổi với bác sĩ để được kiểm tra sâu hơn về các bệnh lý mô liên kết".


Nguồn và ảnh: Daily Mail

28 thg 6, 2025

TIN BUỒN VÀ PHÂN ƯU ( Thân Mẫu Bạn Nguyễn Thị Điềm Tạ Thế 6/2025

 

Được tin trễ 

Cụ Bà NGUYỄN ĐÌNH THI 

Là Thân mẫu Bạn Nguyễn thị Điềm (K.2 SPSG )  Và Nguyễn Thị Am (K.6 ) đã mệnh chung tại Mỷ, Hưởng Đại Thọ  98 tuổi

Nhóm Bạn Bè cũ SPSG k.2 Xin Thành kính Phân Ưu Cùng Tang Quyến

Cầu Nguyện Cho Hương Hồn Cu Được Phiêu Diêu Miền Cực Lạc


H.Điệp chuyển tin

CHUYỆN CHÚNG MÌNH - Thơ Tân Tăng - Sư Pham Saigon K. 8


 
Không phải ngẫu nhiên mà mình cưới nhau.

Thật ra, hôn nhân là chuyện nhiệm mầu,
Được sắp đặt từ Trời cao, em ạ.
Hơn bảy tỉ con người đang xa lạ,
Chuyện gặp nhau, kết hợp chẳng tình cờ.
Và sống chung nhau không phải là mơ,
Mà là tỉnh để cùng nhau xây mộng.
Mang ý nghĩa, hạnh phúc cho cuộc sống,
Cho cháu con, cho mái ấm gia đình,
Xứng đáng loài người sinh vật hiển linh.

Chúng mình cần nhau, đơn giản vậy thôi.
Chỗ thiếu, chỗ thừa giúp nhau hoàn chỉnh.
Trân trọng, yêu thương và luôn phải tỉnh,
Cạm bẫy cuộc đời ghê lắm, em ơi!
Hãy ngước nhìn lên cảm tạ ơn Trời,
Và nhìn ngang, yêu người, vui cuộc sống.
Hãy biến mỗi ngày là ngày thơ mộng,
Sống để yêu nhau, vui thỏa mỉm cười.
Tự nhắc nhở mình làm đóa hoa tươi,
Góp mặt với đời chút hương bé nhỏ.

Chuyện nơi chỗ làm về nhà buông bỏ,
Mái ấm gia đình bữa tối chung vui.
Bỏ ngoài tai, quên hết chuyện ngậm ngùi,
Yêu thương nhau và cùng nhau chia sẻ
Những gì đáng yêu, những gì mới mẻ,
Tươi mới đời mình em nhé, em yêu!
Mình yêu nhau nói từ sáng đến chiều
Vẫn chưa hết! Phí giờ chi chuyện khác?
Hạnh phúc không đến với người biếng nhác,
Cũng sẽ chạy xa với kẻ xấu lòng...
Chuyện chúng mình, nhớ gạn đục, lắng trong...
Phước hạnh Trời ban, con người nắm giữ.

TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐỨC NHÂN TRONG LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA CỦA ITÔ JINSAI (Bài 13)

Đức nhân trong chương 20 Nghiêu Viết

Tác giả: Nguyễn Sơn Hùng 



TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐỨC NHÂN TRONG LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA

CỦA ITÔ JINSAI (Bài 13)

Đức nhân trong chương 20 Nghiêu Viết



Nguyễn Sơn Hùng

***

Phàm lệ

- Dịch là của Nguyễn Hiến Lê.

- Chú thích và Bàn thêm là của Jinsai.

- Các hạng mục khác là của người dịch.


CHƯƠNG 20 NGHIÊU VIẾT

Bài 20.1 Triết lý căn bản chính trị của các tiên vương là kính thiên và trọng dân. Khen thưởng việc tốt, trừng phạt việc xấu, nghiêm trách bản thân, tha thứ độ lượng người khác đều là phương pháp phổ biến rộng rãi tinh thần kính thiên. Căn bản của đạo Khổng là nhân và nghĩa, không phải “công” (không thiên lệch) như Tống Nho chủ trương. Chủ trương của Khổng học: che dấu tội cho người thân là hợp nghĩa!

Chú thích: Trong sách “Khổng Tử và Luận Ngữ” của Nguyễn Hiến Lê chia chương này thành 3 bài giống như sách “Luận Ngữ Tập Chú” của Chu Hy. Trong “Luận Ngữ Cổ Nghĩa” của Itô Jinsai chia chương này thành 4 bài. Ở đây theo phân chia bài của cụ Lê. Do đó Bài 1 (a,b) của Jinsai tương ứng với 2 phần đầu Bài 1 của cụ Lê, và Bài 2 của Jinsai tương ứng câu cuối cùng Bài 1 trong sách cụ Lê.

Bài 20.1 (a)

Nghiêu viết: “Tư! Nhĩ Thuấn, thiên chi lịch số tại nhĩ cung, doãn chấp kỳ trung. Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung”. Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ.

堯曰:咨!爾舜!天之曆數在爾躬,允執其中!四海困窮,天祿永終。舜亦以命禹。

Dịch

(Khi nhường ngôi cho ông Thuấn) vua Nghiêu bảo: “Hỡi ông Thuấn, mệnh trời tuần hoàn, nay ngôi vua về ông; ông nên thành thực giữ đạo trung chính. Nếu dân trong bốn bể khốn cùng, thì lộc trời (ban cho ông) sẽ mất hẳn đấy. (Về sau) vua Thuấn lại truyền những lời đó cho vua Vũ.

Chú thích

1) “Nghiêu viết... thiên lộc vĩnh chung”. “Tư” là tiếng để diễn tả lòng cảm thán. “Lịch số” là dựng lên thứ tự của thời tiết và khí hậu của năm, dùng để hướng dẫn dân các thời kỳ làm nông nghiệp. “Tại nhĩ cung” phụ giúp người dân sống thích hợp với quy luật tự nhiên (đạo của trời đất) (Trích dẫn từ kinh Dịch, tượng văn của”thái”); trong kinh Thư viết “người thay trời là” (bởi vì ngày xưa quan niệm vua là thiên tử, con của trời) (thiên Cao Đào Mô: “thiên công nhân kỳ đại”) là ý này.

“Doãn” là “tín” (sự thật). “Trung” là tiếng để chỉ trạng thái không thừa mà cũng không thiếu (vừa đủ, đúng mức độ cần thiết). Nếu như người trên thế giới (tứ hải) khổ sở trong cuộc sống thì hạnh phúc trời ban cho vị vua sẽ mất vĩnh viễn, đây là lời vua Nghiêu cảnh giác vua Thuấn. Đây là lời vua Nghiêu ra lệnh khi nhường ngôi lại cho vua Thuấn, là lời được kèm theo khi truyền ngôi vua.

“Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ.” Về sau khi vua Thuấn truyền ngôi cho vua Vũ, ông cũng dùng câu nói trên ra lệnh cho vua Vũ.


Giải thích


Đạo của các thánh nhân thời thượng cổ bởi vì thật là rộng lớn mênh mông, nội dung quá trung chính (1) nên không khít khao với các quan hệ trong sinh hoạt xã hội, đôi lúc có chỗ không thích hợp với việc quản trị quốc gia. Do đó, vua Nghiêu mới ra mệnh lệnh cho vua Thuấn bằng lời sau “Doãn chấp kỳ trung (Hãy giữ cho chắc đạo trung chính)”. Và vua Thuấn rất thông hiểu nguyên lý mọi sự việc trên đời cũng như rất rõ ràng các quan hệ con người trong xã hội, ông quản trị quốc gia và dân chúng theo tinh thần nhân nghĩa sẵn có của ông chứ không vì sự tốt đẹp của nhân nghĩa mà thử làm (2). Đó là lý do vua Thuần tiếp nhận đầy đủ đạo của vua Nghiêu (nghĩa là phương châm chính trị của vua Nghiêu).

Ghi chú

(1) Nguyên văn là “trung hành 中行”.

(2) Lời này Jinsai dùng lời trong bài 19 chương 8 Ly Lâu hạ của sách Mạnh Tử, nguyên văn: “Thuấn minh ư thứ vật, sát ư nhân luân, do nhân nghĩa hành; phi hành nhân nghĩa dã 舜明於庶物,察於人倫;由仁義行,非行仁義也。”


Bàn thêm

Trong thiên Đại Vũ Mô của sách Cổ Văn Thượng Thư cũng có ghi lời trong bài này tuy nhiên sách này thêm các từ “nhân tâm 人心 (tâm có lòng ham muốn riêng tư), đạo tâm 道心 (tâm đúng đắn do trời ban phú), tinh nhất 精一(tâm thuần túy không có thứ khác xen vào), nguy vi 危微 (nhân tâm thì không ổn định, đạo tâm thì mờ mịt không rõ ràng). Tuy nhiên, ở chương này của sách Luận Ngữ chỉ nói “Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ” (Vua Thuấn cũng lại mệnh lệnh cho vua Vũ), nội dung mệnh lệnh của vua Thuấn cho vua Vũ chỉ gồm có 22 chữ như sau “Tư! Nhĩ Thuấn, thiên chi lịch số tại nhĩ cung, doãn chấp kỳ trung. Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung”, không có các từ vi nguy, tinh nhất...Chúng ta có thể hiểu rõ như vậy.

Các Nho gia đời Tống, đời Minh nghi ngờ phải chăng thiên Đại Vũ Mô thật sự không phải của Cổ Văn Thượng Thư, có người cho là ngụy tác (tác phẩm giả tạo) của Nho gia đời Hán. Có lẽ người nào đó bắt chước lời viết trong lục kinh hoặc Luận Ngữ, Mạnh Tử rồi ăn cắp các câu trong các sách này để tô điểm thêm.

Trong sách Tuân Tử cũng trích 2 câu “Nhân tâm chi nguy” , “Đạo tâm chi vi” và nói “Trong“Đạo Kinh” nói như vậy” (trong thiên 21 Giải Tế của sách Tuân Tử). Tuy nhiên sách này không nói “trong “Ngu Thư” nói như vậy” nên chúng ta hiểu rõ lời này vốn không phải lời tiếp nhận từ vua Nghiêu, vua Thuấn.

Tôi (Jinsai) nghĩ rằng vào đời Đường (vua Nghiêu), đời Ngu (vua Thuấn), nội dung nghị luận bình dị, thành thật không tô điểm màu mè, chủ yếu nghị luận trong phạm vi về cách phân biệt xấu tốt của con người, thiện ác của chính trị, không có nghị luận về quan hệ giữa tâm và tính của người hoặc đặc tính không ổn định rõ ràng của bản tính con người như thời sau này thường nghị luận.

Từ nhận định trên thiên Đại Vũ Mô nói trên thật ra là do Nho gia đời Hán lập ra, lời của vua Nghiêu, vua Thuấn ra trong mệnh lệnh chỉ gồm có 22 chữ như đã nói ở trên.


Nhận xét

(1) Phần đầu Giải thích (của Jinsai) từ “nội dung quá trung chính... “Doãn chấp kỳ trung” giảng giải không cụ thể, khó hiểu, cần tìm hiểu thêm. Bởi vì Jinsai chủ trương “trung” là thích đáng, vừa đúng chứ không phải “trung bình” hoặc “không thiên lệch”.

(2) Ý trong lời “do nhân nghĩa hành; phi hành nhân nghĩa dã” câu này hơi khó hiểu nhưng ý nghĩa rất thâm thúy. Ý nghĩa là làm điều tốt do lòng nhân nghĩa sẵn có hoặc do bẩm sinh, do tự nhiên chớ không phải vì thánh nhân hoặc người đời cho rằng nhân nghĩa tốt mà làm. Điểm khác của phần trước và phần sau của câu này như sau: “phần trước” (của câu nói) là lòng nhân nghĩa đã có sẵn trong người của vua Thuấn, do bẩm sinh hoặc đã tập luyện thấm nhuần như thói quen không cần phải đắn đo lợi hại. Trong khi “phần sau” là mục tiêu hướng tới hoặc mục đích của việc làm. Trong trường hợp này có thể vì mục đích hoặc lòng muốn làm cho bằng được mà nhiều khi việc làm lại trái ngược với nhân nghĩa mà bản thân không biết! Khó là ở điểm này!


Bài 20.1 (b)

Viết: “Dư tiểu tử Lý, cảm dụng huyền mẫu, cảm chiêu cáo vu hoàng hoàng hậu Đế: Hữu tội bất cảm xá. Đế thần bất tế, giản tại Đế tâm. Trẫm cung hữu tội, vô dĩ vạn phương; vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung.”

Chu hữu đại lại, thiện nhân thị phú. Tuy hữu chu thân, bất như nhân nhân. Bách tính hữu quá, tại dư nhất nhân.”

Cẩn quyền lượng, thẩm pháp độ, tu phế quan, tứ phương chi chính hành yên. Hưng diệt quốc, tu phế quan, kế tuyệt thế, cử dật dân, thiên hạ chi dân qui tâm yên. Sở trọng: Dân, thực, tang, tế.

曰:予小子履,敢用玄牡,敢昭告於皇皇后帝:有罪不敢赦,帝臣不蔽,簡在帝心!朕躬有罪,無以 萬方;萬方有罪,罪在朕躬。

周有大賚,善人是富。雖有周親,不如仁人;百姓有過,在予一人。 謹權量,審法度,修廢官,四方之政行焉。興滅國,繼絕世,舉逸民,天下之民歸心焉。 所重民,食,喪,祭。

Dịch

(Khi lên ngôi – có sách giảng là nhân một lần đảo vũ) (vua Thành Thang) cáo (với Trời): “Đứa tiểu tử (con nhỏ) này tên là Lý, mạo muội dùng con bò đực đen để tế, mạo muội cáo bạch với Thượng Đế chí tôn chí cao rằng: “Kẻ có tội (có sách bảo đây ám chỉ vua Kiệt), tiểu tử không dám tha. Nhưng kẻ bề tôi của Thượng Đế ai thiện, ai ác, tiểu tử không dám giấu, vì lòng Thượng Đế rõ rồi. (Bản thân trẫm....) Nếu trẫm có tội, xin đừng để lụy đến dân chúng bốn phương, nếu dân bốn phương có tội thì đó là tội của trẫm”.

(Sau khi Võ vương diệt Trụ) nhà Chu được trời thưởng lớn, nên có nhiều người thiện. (Và những người này được Võ vương phong làm vua chư hầu). (Khi phong Tề Thái công, Võ vương bảo:) “Tuy có người thân thích rất gần, cũng không bằng có người nhân đức. Trăm họ có lỗi, đều tại một mình ta (không biết giáo hoá).”

(Võ vương) định lại cẩn thận cái cân và đồ đo lường, chế định pháp độ, khôi phục lại những quan chức đã bị (vua Trụ) bãi bỏ, chính lệnh trong thiên hạ được thi hành. Ông phục hưng những nước chư hầu đã bị diệt, cho người nối tiếp những dòng họ đã bị tuyệt, đề bạt những người ẩn dật có tài đức nên nhân dân khắp nơi qui phục. Ông coi trọng những việc này nhất: Thương dân, lương thực, tang lễ, tế tự.


Chú thích

1) “Viết: “Dư tiểu tử Lý, ...vu hoàng hoàng hậu Đế””. Chu thị (tức Chu Hy) nói “Trên chữ “Viết” phải có chữ “Thang” (tên vua nhà Ân) là đúng. “Lý” là tên của vua Thành Thang của nhà Ân. Nhà Ân xem màu trắng là màu tốt lành mà ở đây dùng bò đực đen để tế lễ bởi vì lúc đó chính quyền mới chưa đổi quy định lễ của nhà Hạ (Hạ là triều đại trước đó. Nhà Hạ xem màu đen là cấp bậc cao). “Hoàng hoàng” là tiếng để diễn tả sự vĩ đại. “Hậu” là vua, dùng để chỉ thiên đế (thần của trời). Nội dung câu này rõ ràng là tấu lên thần của trời ý hướng muốn chinh phạt vua Kiệt của nhà Hạ.

2) “ “Hữu tội bất ... giản tại Đế tâm.”” “Giản” là duyệt, nghĩa là chọn lựa. “Hữu tội” là chỉ vua Kiệt. “Đế thần bất tế” (Đế thần là người tài có đức độ, bất tề là bổ nhiệm) có lẽ để chỉ Y Doãn (công thần của vua Thang). Câu này ý nói việc xấu tốt của thiên hạ không phải do xử lý của vua mà chỉ do lòng trời chọn lựa

3) “Trẫm cung hữu tội... tội tại trẫm cung”.” Tất cả đều là lời bẩm báo lên trời. “Vô dĩ vạn phương” nghĩa là không có việc giáng tai hại và hạnh phúc xuống cho dân. Dân có tội thì đó chính là vua gây ra nguyên nhân, do đó trời nên phạt tội vua, không nên phạt tội dân. Câu này hiện nay có trong thiên Thang Cáo của sách Cổ Văn Thượng Thư. Tuy nhiên trong (thiên Kiêm Ái hạ) sách Mặc Tử cũng có trích dẫn “vạn phương hữu tội” và được cho là trích từ thiên “Thang Thệ” (Jinsai căn cứ theo Luận Ngữ Tập Giải của Khổng An Quốc nên cho rằng từ xưa đã có thiên Thang Thệ nên nói thiên Thang Cáo là ngụy tạo. Tuy nhiên trong sách Mặc Tử hiện nay viết là Thang Cáo). Do đó, sách Cổ Văn Thượng Thư càng đáng nghi ngờ.

4) “Chu hữu đại lại... thiện nhân thị phú.” Hà thị (tức Hà Yến) giải thích “Chu” là dòng họ vua của nhà Chu, “lại” là “tứ” nghĩa là trời ban cho. Câu này ý nói dòng họ vua nhà Chu nhận được nhiều ơn trời, được trời ban phú trong các bề tôi có nhiều người tốt. (Trong thiên Thái Thệ của kinh Thư) viết “Hữu thập loạn thần (1)” (có 10 bề tôi trị thiên hạ giỏi) là để chỉ điều này.

5) “Tuy hữu chu thân, bất như nhân nhân.” Khổng thị (Khổng An Quốc) nói như sau “Dù cho cùng một dòng tộc mà không trung nghĩa, không phải là người tài đức thì cũng chống đối hoặc giết hại người thân vì lợi ích riêng tư. Quản Thúc (Quản Thúc Tiên, tên Cơ Tiên) là và Thái Thúc (Thái Thúc Độ, tên Cơ Độ) (cả 2 đều là em của Võ vương) là thí dụ xấu này. “Nhân nhân (người có đức nhân)” là Cơ tử và Vi tử (Bài 1 chương 18 Vi Tử ). Về sau cả 2 đều đến dưới trướng của Võ vương và được bổ nhiệm làm quan.

6) “Bách tính hữu quá, tại dư nhất nhân.” Ý của Võ vương là nói hãy trị tội 1 mình ông thôi.

7) “Cẩn quyền lượng... tứ phương chi chính hành yên.” “Quyền” là quả cân của cái cân đo trọng lượng. “Lượng” là chén dùng để đo dung tích của gạo hoặc chất lỏng. “Pháp độ” là tất cả các chế độ quy định lễ nghi và âm nhạc. Thời xưa, quan chức là cha truyền con nối nên con cháu trân trọng tuân giữ pháp độ. Nếu như quan chức đó bị phế bỏ thì việc quản trị địa phương bị trống không. Do đó các chức quan được chuẩn bị.

8) “Hưng diệt quốc... chi dân qui tâm yên.” Chu thị (Chu Hy) nói như sau. ““Hưng diệt kế tuyệt” là phong các con cháu hậu duệ của các vua Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn, Hạ, Thương (Ân) làm chư hầu. “Cử dật dân” là phóng thích Cở tử đã bị vua Trụ tù đày, bổ nhiệm lại Thương Dung (quan đại phu thời vua Trụ, bị đuổi đi vì can gián) làm quan đại phu. Cả 3 việc, việc nào cũng là nguyện vọng của dân chúng.”

9) “Sở trọng: Dân, thực, tang, tế.” Khổng thị (Khổng An Quốc) nói như sau. “Điều mà bậc đế vương xem trọng là 4 điều nói trong bài. Xem trọng dân bởi vì dân là căn bản của quốc gia. Xem trọng thực bởi vì thực là gốc sinh mệnh của dân. Xem trọng tang bởi vì tang đủ cho thấy tâm tình buồn đau. Xem trọng tế bởi vì tế (lễ cúng) là cơ hội để diễn tả hết tấm lòng kính trọng.” Nội dung trên là nói về việc làm của Võ vương. Thử nghĩ, lời của Võ vương hiện nay thấy được ở trong các thiên như Võ Thành, Thái Thệ ...Tuy nhiên, các lời của Võ vương ở trong sách Cổ Văn Thượng Thư có rất nhiều chỗ không ăn khớp với nhau, và có nhiều Nho gia có nghi vấn. Do đó, ở đây tôi không trích dẫn Cổ Văn Thượng Thư để giải thích các bài ở chương này.


Ghi chú

(1) Nên lưu ý trong tự điển tiếng Nhật thông thường như Hán Tự Điển Obunsha, Digital Đại Từ Tuyền đều ghi “Loạn thần乱臣” có 2 nghĩa trái ngược nhau: 1) bề tôi là mưu tính việc phản nghịch làm rối loạn quốc gia, còn gọi là “nghịch thần”; 2) bề tôi quản trị quốc gia giỏi (loạn: trị giỏi). Trong Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu ghi nghĩa thứ 7 của “loạn” là trị yên. Tiếng Hán thật khó, dễ hiểu sai!

Trong khi từ điển tiếng Việt như Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh, Hán Việt Tân Từ Điển của Nguyễn Quốc Hùng chỉ ghi nghĩa đầu. Trong Đại Tự Điển Hán Việt của Trần Văn Chánh (2022) ghi nghĩa thứ 11 của “loạn” là cai trị. Thí dụ, “Kỳ năng nhi loạn tứ phương”: Ông ấy có khả năng cai trị bốn phương (trích dẫn: Thượng Thư: Cố Mệnh)

Giải thích

Dương thị (Dương Thì) nói như sau. “Nội dung ghi lại trong sách Luận Ngữ đều là của thánh nhân (Khổng tử) nên lời nói có ý nghĩa vi diệu sâu xa, các đệ tử của phu tử đã trân trọng giữ gìn truyền đạt lại, nhờ đó mà tư đạo斯道(lời dạy của thánh nhân) được hiểu rõ. Do đó chương cuối cùng của sách ghi chép lại các lời khuyên nhủ, mệnh lệnh của vua Nghiêu, vua Thuấn, chí hướng, lời thề với quân sĩ, những sự tích đã được thực hiện cụ thể trong các chính sách trị quốc của vua Thang, vua Võ để làm rõ rằng nội dung mà Khổng học truyền đạt lại trong sách nhất trí với nội dung của bài này. Đồng thời nội dung của bài này cũng nói lên đại ý của 20 chương của Luận Ngữ.”

Đạo (triết lý căn bản chính trị) của các vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Võ (Võ vương) là không ngoài 2 điều: kính thiên và trọng dân (trân trọng dân chúng). Và kính thiên là căn bản của triết lý chính trị này. Do đó, trong bài có các câu “thiên chi lịch số tại nhĩ cung”, “giản tại Đế tâm”, “Chu hữu đại lại”, câu nào cũng cho thấy thái độ kính thiên.

Nói chung, khen thưởng việc tốt, trừng phạt việc xấu, nghiêm trách bản thân, tha thứ độ lượng người khác đều là phương pháp phổ biến rộng rãi tinh thần kính thiên này.

Lý do phu tử (Khổng tử) tiếp nhận và phát triển đạo của vua Nghiêu, vua Thuấn cũng như làm rõ ràng các mẫu mực đạo của Văn vương và Võ vương cho người đời hiểu cũng là không ngoài việc phổ biến rộng rãi tinh thần kính thiên nói trên.

Bài 20.1 (c)

Khoan tắc đắc chúng, tín tắc dân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, công tắc duyệt.

寬則得眾,信則民任焉。敏則有功,公則說。

Ghi chú: Bài này tương đương Bài 20.2 của Jinsai.

Dịch

(Võ vương) khoan hậu nên được lòng người, thành thực nên được trăm họ tín nhiệm, cần mẫn nên thành công, công bình nên mọi người vui vẻ.

Chú thích

Chữ “công” 公 không có trong sách Luận Ngữ ở các bài khác (“công” với nghĩa là “của chung” phản nghĩa của “tư” (của riêng), ngoài ở trong bài này không có ở các bài khác; chỉ có để chỉ chức quan lại). So sánh lời của bài này vớ Bài 6 chương 17 Dương Hóa (theo Cổ Nghĩa là Bài 5) thì chữ “công” nên sửa đổi sang chữ “huệ” 惠.

Giải thích

Trong phiên bản của sách Luận Ngữ xuất bản trước đây thì bài này được sắp xếp vào Bài 1. Tuy nhiên, nội dung của bài này không có liên quan về sự tích của Võ vương. Hơn nữa, Khi so sánh bài này với nội dung của Tử Trương hỏi về đức nhân trong Bài 6 chương 17 Dương Hóa thì đại khái giống nhau, trừ đi 1 nửa phần đầu. Ở Bài 17.6 thì trước “Khoan tắc đắc chúng” là “Cung tắc bất vũ” (Cung kính thì không bị khinh nhờn). Có lẽ bởi vì bài kế trong chương này cũng là câu hỏi Khổng tử của Tử Trương nên sai lầm, ghi lại 2 lần.

Ghi chú

Bài 16. 6 như sau:

“Tử Trương vấn nhân ư Khổng tử. Khổng tử viết: “Năng hành ngũ giả ư thiên hạ, vi nhân hĩ” “Thỉnh vấn chi”. Viết: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ, khoan tắc đắc chúng, tín tắc nhân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử nhân.”

Bàn thêm

Học thuyết của Tống Nho thường xem trọng đề tài về chữ “công”公. Thí dụ chữ “công” trong các câu như sau “Thiên lý chi công 天理之公” (nghĩa là lẽ trời không có thiên lệch), “Công nhi dĩ nhân thể公而以人体” (nghĩa là lấy sự không thiên lệch làm lập trường của con người) (Trình Y Xuyên Ngôn Lục, Cận Tư Lục, quyển 2). Tuy nhiên, chữ “công” xuất hiện nhiều lần trong các sách Lão Tử và Trang Tử nhưng không được sử dụng trong kinh sách (Luận Ngữ) của các thánh nhân (Khổng Tử) mà chúng tôi tôn sùng. Lý do như sau. “Công” có nghĩa đối với điều đúng thì cho là đúng, đối với điều sai thì cho là sai, một ít không công bình cũng không có. Tuy nhiên nếu cho rằng không có sự phân biệt giữa ruột thịt và người dưng (không họ hàng) là “công” (không thiên lệch) thì nhất định sẽ đem đến việc gây tổn thương đức nghĩa (mặt đạo đức của quan hệ giữa người và người). Bởi vì “Cha vì con mà che dấu điều xấu của con để con không bị tội, con vì cha mà che dấu tội của cha” (Bài 18 chương 13 Tử Lộ). “Trường hợp người nước Việt giương cung định bắn người, bởi vì không liên quan với bản thân mình nên vừa cười vừa kể lại câu chuyện. Tuy nhiên, nếu anh ruột của bản thân mình giương cung định bắn người thì vừa đau khổ vừa khóc mà thuật lại câu chuyện” (Bài 3 chương 12 Cáo Tử hạ, sách Mạnh Tử). Đối với những trường hợp vừa kể không thể gọi là công bình vô tư. Tuy nhiên, đỉnh cao mà đạo Khổng đem đến cho con người chính là tình người. Đó là lý do thánh nhân lập tiêu chuẩn đức nghĩa để phân biệt đúng hay không khi hoàn thành tình yêu thương con người bằng đức nhân (nghĩa là, nhân và nghĩa là căn bản của đạo làm người) . Điều này giống như đạo của trời có dương và âm, đạo của đất có cương và nhu (tư tưởng theo thiên Thuyết Quái của kinh Dịch). Đạo không thể chỉ có 1 trong 2. Do đó, nếu hợp với đức nhân mà không hợp với đức nghĩa thì đó là nhân của Mặc tử, (đối với người của Khổng môn) không thể thực hiện được. Nếu hợp với đức nghĩa mà không hợp với đức nhân thì đó chỉ là nghĩa của chủ trương Dương tử (tức Dương Chu), (đối với người của Khổng môn) không thể tuân theo được. Nếu như hợp cả nhân và nghĩa thì không cần phải chờ nói đến “công” mà tự nhiên là không có sự thiên vị riêng tư (nghĩa là che dấu cho người thân là hợp với nghĩa, không phải thiên vị vì riêng tư).

Nhận xét

(1) Chủ trương của Khổng học “Che dấu tội cho người thân là hợp nghĩa” đúng là hợp với tình người nhưng đúng hay sai thật sự là điều khó kết luận đối với người dịch. Điều có thể nói là tùy theo trình độ của tội và thái độ của người thân sau khi phạm tội, cụ thể là biết hối cải hay không.

Một bài học khác là nhắc nhở mỗi người chúng ta nên biết tự học hỏi luôn cảnh giác giữ lấy mình sống cho tốt để tránh gây cho người thân khó xử. Đồng thời ngoài việc tu dưỡng bản thân còn cần phải lưu tâm đến vấn đề giáo dục con cháu và nhắc nhở người thân sống tốt để tránh trường hợp khó xử xảy ra.,


Bài 20.2 Giữ 5 điều tốt: ban ơn nhưng không phí, bắt dân đóng góp nhưng quá đáng, muốn nhưng không tham, thành công nhưng kiêu căng, uy nghi nhưng không nghiêm khắc dữ tợn, và loại bỏ 4 điều xấu: không dạy mà trừng trị, không báo trước mà bắt hoàn thành gấp, lúc đầu để chểnh mảng sau lại định kỳ hạn gắt gao, và không giữ lời hứa, thì có thể quản trị dân

Tử Trương vấn ư Khổng Tử viết: “Hà như, tư khả dĩ tòng chính hỹ”. Tử viết: “Tôn ngũ mỹ, bính tứ ác, tư khả dĩ tòng chính hỹ”. Tử trương viết: “Hà vị ngũ mỹ?” Tử viết: “Quân tử huệ nhi bất phí, lao nhi bất oán, dục nhi bất tham, thái nhi bất kiêu, uy nhi bất mãnh”. Tử Trương viết: “Hà vị huệ nhi bất phí?” Tử viết: “Nhân dân chi sở lợi nhi lợi chi, tư bất diệc huệ nhi bất phí hồ? Trạch khả lao nhi lao chi, hựu thùy oán? Dục nhân nhi đắc nhân, hựu yên tham? Quân tử vô chúng quá, vô tiểu đại, vô cảm mạn, tư bất diệc thái nhi bất kiêu hồ? Quân tử chính kỳ y quan, tôn kỳ chiêm thị, nghiễm nhiên nhân vọng nhi uy chi, tư bất diệc uy nhi bất mãnh hồ?” Tử Trương viết:“Hà vị tứ ác?” Tử viết:“Bất giáo nhi sát, vị chi ngược; bất giới thị thành, vị chi bạo; mạn lệnh trí kỳ, vị chi tặc; do chi dữ nhân dã, xuất nạp chi lận, vị chi hữu ty.”

子張問於孔子曰:何如斯可以從政矣? 子曰:尊五美,屏四惡,斯可以從政矣。 子張曰:何謂五美? 子曰:君子惠而不費,勞而不怨,欲而不貪,泰而不驕,威而不猛。子張曰:何謂惠而不費? 子曰:因民之所利而利之,斯不亦惠而不費乎?擇 可勞而勞之,又誰怨?欲仁而得仁,又焉貪?君子 無眾寡,無小大,無敢慢,斯不亦泰而不驕乎?君 子正其衣冠,尊其瞻視,儼然人望而畏之,斯不亦 威而不猛乎? 子張曰:何謂四惡?子曰:不教而殺謂之虐;不戒 視成謂之暴;慢令致期謂之賊;猶之與人也,出納 之吝,謂之有司。


Dịch


Tử Trương hỏi Khổng tử: “Thế nào thì có thể tòng chính (gánh việc được) được?” Khổng tử đáp: “Phải trọng năm điều tốt, trừ bốn điều xấu thì có thể tòng chính được”. Tử Trương hỏi: “Thế nào là năm điều tốt?” Khổng tử đáp: “Người quân tử ban ân huệ cho dân mà không hao tốn, khiến dân làm việc khó nhọc mà dân không oán, có lòng muốn mà dân không tham, thư thái mà không kiêu căng, uy nghiêm mà không dữ tợn”. Tử Trương hỏi: “Thế nào mà ban ân huệ cho dân mà không hao tốn?…”. Khổng tử đáp: “Nhân cái lợi của dân mà làm lợi cho dân (chẳng hạn dân ở miền núi, miền biển… cái lợi của núi, của biển, khuếch trương những lợi đó cho dân) thì chẳng phải là ban ân huệ cho dân mà không hao tốn ư? Chọn việc phải làm và lúc nào đáng làm mà khiến cho dân làm, như vậy thì ai oán? Muốn có điều nhân mà được điều nhân thì còn gì mà tham? Người quân tử đối với dân, chẳng kể là đám đông hay ít, người lớn hay người nhỏ (có người dịch là chẳng kể việc lớn hay việc nhỏ), không dám khinh thường, trễ biếng, như vậy chẳng phải là thư thái mà không kiêu căng ư? Người quân tử mũ áo chỉnh tề, nhìn ngó đoan chính, dáng mạo trang trọng, ai trông thấy cũng kính sợ, như vậy chẳng phải uy nghiêm mà không dữ tợn ư?” Tử Trương hỏi: “Thế nào là bốn điều xấu?” Khổng tử đáp: “Không giáo hoá dân, để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược; không cắt đặt, răn bảo trước mà muốn có thành tích, như vậy là hung bạo; khi ra lệnh thì không bảo là cấp bách rồi đột nhiên bắt dân phải làm xong trong một kỳ hạn gấp, như vậy là hại dân; khi cho dân cái gì mà so đo bỏn xẻn với dân, như vậy là có thói nhỏ nhen của một viên chức thấp (hữu ty)”

Chú thích

1) Theo Khổng thị (Khổng An Quốc), “bính” trong “bính tứ ác” nghĩa là sự loại bỏ đi.

2) “Tử trương viết: “Hà vị ngũ mỹ?” Tử viết: “Quân tử huệ nhi bất phí, lao nhi bất oán”. Hai việc: không phung phí ban ơn huệ và không bắt dân đóng góp công sức quá đáng, là trọng yếu của việc quản trị dân.

3) “Dục nhi bất tham, thái nhi bất kiêu, uy nhi bất mãnh”. Ba điều: muốn mà không tham lam, thuận lợi suông sẻ mà không kiêu căng, và uy nghi mà không khắc khe, là những điểm trọng yếu của việc tu sửa hành động việc làm của bản thân cho đúng. Việc tu sửa hành động việc làm của bản thân cho đúng là căn bản của của việc quản trị dân.

4) “Tử Trương viết: Hà vị huệ nhi bất phí?”Tử viết: “Nhân dân chi sở lợi nhi lợi chi,.... tư bất diệc uy nhi bất mãnh hồ?”. Đối với “huệ” dễ có khuynh hướng ban cho một cách lãng phí; “lao” (dùng sức của dân làm việc công) dễ sinh ra việc dân chúng oán giận; “dục” (lòng ham muốn) dễ sinh ra tham lam; “thái” (thuận lợi suôn sẻ) dễ sinh ra kiêu ngạo; “uy” dễ sinh ra nghiêm ngặt, dữ tợn. Người quân tử không có những khuyết điểm này, nên đó là những điểm tốt.

5) “Tử Trương viết: “Hà vị tứ ác?”... Tử viết:“Bất giáo nhi sát, vị chi ngược””. “Ngược” là tàn khốc bất nhân.

6) “Bất giới thị thành, vị chi bạo”. Nghĩa là không thông báo trước mà đốc thúc hoàn thành công việc, công trình. (Trong Sư Đơn Truyện của chương 56, quyển 5 sách Hán Thư) gọi việc này là “tốt bạo vô tiệm卒暴無漸” (nghĩa là thực hiện đột ngột không theo tuần tự)

7) “Mạn lệnh trí kỳ, vị chi tặc”. Chu thị (Chu Hy) nói “trí kỳ” là định ngày hết thời hạn. “Tặc” có nghĩa là làm hại. Nghĩa trong trường hợp này giống như nghĩa “tặc” trong câu“Tặc phù nhân chi tử” (làm hư hại con người (của Tử Cao) trong bài 24 chương 11 Tiên Tiến). Ý nói khi mới bắt đầu công trình thì để cho chậm rãi giữa chừng lại bắt dân phải gấp rút lên, cách làm như vậy là hại dân.

8) “Do chi dữ nhân dã, xuất nạp chi lận, vị chi hữu ty.” Chu thị (Chu Hy) nói như sau. “Khi nói thì nói phân chia các đồ vật đồng đều cho mọi người nhưng khi thực hiện thì lại tiếc của không giữ lời hứa. Đây là cách làm của các chức quan thấp không phải là việc làm của những nhà chính trị hoặc quan chức lớn như vua hoặc tể tướng.”

Giải thích

Ý của bài này là chính trị là lấy đức nhân làm căn bản và cảnh giác không nên bất nhân. Nội dung của bài này phải nói là quá dài nhưng điểm trọng yếu xuất phát từ 2 điểm nói trên, người học cần phải nhận rõ ra điều này.


Bài 20.3 Hiểu sống để làm gì (tri mệnh), giữ lễ (tri lễ), hiểu lời của người khác (tri ngôn) là cơ sở căn bản để sống tốt.

Tử viết: “Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã. Bất tri lễ, vô dĩ lập dã. Bất

tri ngôn, vô dĩ tri nhân dã.

子曰:不知命,無以為君子也;不知禮,無以立 也;不知言,無以知人也。


Dịch (của Nguyễn Hiến Lê )

Khổng tử nói: “Không biết mệnh trời thì không phải là người quân tử; không biết lễ thì không biết cách đi đứng ở đời (hoặc không biết lập thân trong chính đạo); không biết phân biệt lời nói của người thì không hiểu người.”

Dịch (của người biên dịch)

Khổng Tử nói: “Không biết mệnh trời thì không biết lấy gì để căn cứ theo đó mà làm người quân tử được. Không biết lễ thì không biết lấy gì để để căn cứ theo đó mà sống thành công trong xã hội. Không biết ý nghĩa muốn nói của người khác thì không biết lấy gì để căn cứ vào đó mà hiểu biết tâm tư tình cảm của người khác.”

Chú thích


1) “Tử viết: “Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã.””Đối với trời, chắc chắn có cái lý (nguyên tắc, quy luật) để trời ban phúc hoặc trao họa. Đối với con người, có cái đạo để tự bản thân mình đem tới phúc hay họa. Do đó, nếu như hiểu rõ tính cách của thiên mệnh (mệnh trời) thì sống vui vẻ, không có lo lắng quá mức, và không có việc lười biếng hoặc úy sợ mệnh trời. Đây là căn bản của người quân tử.

2) “Bất tri lễ, vô dĩ lập dã.” Nếu lấy thân thể con người làm tỉ dụ, thì lễ là bộ xương. Do đó, nếu biết rõ thế nào là lễ thì sẽ được xã hội xem là 1 con người đã trưởng thành thật sự.

3) “Bất tri ngôn, vô dĩ tri nhân dã.” Lời nói là dấu hiệu xuất hiện ở bên ngoài của con người. Do đó, nếu hiểu lời nói của người nói thì có thể hiểu tính cách, suy nghĩ bên trong của con người đó

Giải thích

Phụ Quảng 輔廣 nói như sau: “Nếu biết rõ thiên mệnh thì tự bản thân sẽ trở nên có cách nhìn cách suy nghĩ nhất định về sự vật, nghĩa là có rõ nhân sinh quan về cuộc sống. Nếu hiểu rõ lễ là gì thì sẽ trở nên biết giữ gìn hành vi, việc làm của mình theo một khuôn khổ nhất định. Nếu hiểu ý nghĩa của ngôn từ (của người khác) thì không làm tổn thương tâm tình của người khác. Nếu hiểu rõ hết cả thiên mệnh, lễ và ngôn từ thì về mặt nội tâm đủ để hoàn thành đức của bản thân và về mặt đối với bên ngoài, mặt xã hội thì đủ để nắm hết tâm tình suy nghĩ của người khác. Do đó, có được 3 đức này thì đủ để làm người quân tử”.

Duẫn thị (Duẫn Phanh尹焞, 1071~1142) nói như sau. “Các đệ tử của Khổng tử ghi lại lời của Khổng tử để làm bài cuối cùng cho sách Luận Ngữ có ý nghĩa quan trọng tương ứng (của bài cuối cùng). Người học lúc trẻ đọc Luận Ngữ và khi tuổi đã cao nếu không phát hiện ra việc: dù cho 1 chữ của sách mà không nghĩ là có thể thực hiện trong thực tế thì hầu giống như xem thường lời nói của thánh nhân. Là tội nhân đối với Khổng tử. Do đó luôn luôn cần phải để tâm suy nghĩ về nội dung từng chữ của sách.

Nhận xét

(1) Hay thay cho 3 điều: tri mệnh, tri lễ, tri ngôn! Ngắn gọn nhưng chứa đầy đủ cơ sở của cách sống ở đời. “Tri mệnh” là biết phương châm sống, biết bản thân nên sống để làm gì, định phương hướng đi của cuộc đời mình.

“Tri lễ” là biết cách ứng xử với người trong xã hội như thế nào để được thuận lợi suông sẻ trong cuộc sống, để cho người khác tôn trọng và yêu thương mình. Bởi vì đối với con người, 1 mình không thể sống an vui. Người dịch nghĩ rằng cơ sở của lễ là lòng biết ơn người khác. Có người nghĩ rằng trọng lễ là trọng hình thức, trọng bề ngoài, không thật lòng, không thật tình. Không phải như vậy nếu chúng ta thực hiện lễ với lòng biết ơn thật sự. Dĩ nhiên, ơn đó có nhiều cấp bậc. Ít nhất giữ lễ giúp chúng ta tránh được nhiều phiền toái vô ích. Và điều quan trọng cần nên hiểu ý nghĩa thực sự của lễ là gì! Đến mãi về sau này sống lâu ở Nhật Bản, người dịch mới hiểu cái hay của Khổng học là xem trọng việc học và giữ lễ!

“Tri ngôn” không phải là hiểu ngôn ngữ mà là hiểu nội dung của người khác muốn truyền đạt qua lời nói hay văn từ của họ. Mới đầu người dịch không hiểu ý này nên cho rằng nhận xét của Phụ Quảng không hiểu tầm quan trọng và khó khăn của việc truyền đạt ý tưởng bằng ngôn ngữ giữa người và người. Qua việc dịch thuật người dịch phát hiện: 1) đối với một từ ngữ, có nhiều trường hợp có nhiều nghĩa, đôi lúc cùng 1 từ có 2 nghĩa hoàn toàn đối ngược nhau, 2) mỗi người dùng ngôn từ với cách hiểu riêng của họ, ngay cả trong các từ điển đôi lúc cũng có sự khác biệt. Đó chỉ là ý nghĩa của từ vựng. Ngoài ra, còn cách diễn tả, có người diễn tả không chính xác điều họ muốn nói nên có thể làm người tiếp nhận hiểu sai ý của họ là việc thông thường. Tóm lại hiểu được tâm ý tình cảm của người khác là việc rất quan trọng để sống hoặc sinh hoạt chung nhưng hiểu rõ ngôn từ của họ muốn truyền đạt không phải dễ!

Biết tâm tình của người khác (tri ngôn), biết cách ứng xử với họ (tri lễ) và biết mình phải đi về đâu (tri mệnh) không phải là cở sơ căn bản nhất của cuộc sống sao?


Bài 20.1 trong Luận Ngữ Trưng

Nghiêu viết: “Tư! Nhĩ Thuấn, thiên chi lịch số tại nhĩ cung, doãn chấp kỳ trung. Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung”. Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ.

Viết: “Dư tiểu tử Lý, cảm dụng huyền mẫu, cảm chiêu cáo vu hoàng hoàng hậu Đế: Hữu tội bất cảm xá. Đế thần bất tế, giản tại Đế tâm. Trẫm cung hữu tội, vô dĩ vạn phương; vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung.”

Chu hữu đại lại, thiện nhân thị phú. Tuy hữu chu thân, bất như nhân nhân. Bách tính hữu quá, tại dư nhất nhân.”

Cẩn quyền lượng, thẩm pháp độ, tu phế quan, tứ phương chi chính hành yên. Hưng diệt quốc, tu phế quan, kế tuyệt thế, cử dật dân, thiên hạ chi dân qui tâm yên. Sở trọng: Dân, thực, tang, tế.

Khoan tắc đắc chúng, tín tắc dân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, công tắc duyệt.

Giải thích

“Thiên chi lịch số tại nhĩ cung”. Hà Yến nói “Lịch số là thứ tự”. Chu tử căn cứ vào chú giải này nói “Thứ tự truyền ngôi vua của đế vương giống như thứ tự trước sau của các năm và các mùa”. Jinsai nói “Lịch số là ghi chép thời điểm năm, mùa và tiết khí (1 năm có 24 tiết khí như lập xuân, vũ thủy...) để truyền thụ lại cho dân. “Tại nhĩ cung” là phụ giúp dân chúng sống thuận theo đạo của trời đất (tài thành phụ tướng thiên địa chi đạo) (trích dẫn từ Thái Quái Tượng Truyện của kinh Dịch). Trong kinh Thư viết “người thay trời (thiên công nhân kỳ đại chi)” (bởi vì ngày xưa quan niệm vua là thiên tử, con của trời) (thiên Cao Dao Mô) là điều này.”

Sách cổ đại thật là thâm sâu khó hiểu! Tuy nhiên, cả 2 giải thích này đều giống như câu đố không có câu trả lời! Chắc chắn là không việc như vậy! Hơn nữa, giải thích “tài thành phụ tướng” của Jinsai lại cao xa tinh xảo làm sao! Vào thời Đường Nghiêu làm sao có lời như vậy!

Đạo của tiên vương ở cổ đại lấy “phụng thiên” (kính nghe theo mệnh lệnh, ý hướng của trời) làm gốc. Do đó, trong thiên Nghiêu Điển của kinh Thư không có ghi nội dung nói trên chỉ ghi “Khâm nhược hạo thiên” (kính cẩn tuân theo trời xanh) và “thụ nhân thời” (truyền đạt thời đến dân). Việc trong thiên Nghiêu Điển (đúng ra là thiên Cao Dao Mô) dùng chữ “thiên (trời)” trong các từ “thiên tự” (sắp xếp có hàng ngũ của trời), “thiên trật” (trật tự của trời), “thiên công” (việc làm, vận hành của trời) tất cả đều để chỉ hành động của trời. Căn cứ vào nghĩa và hòa đặt ra chức thiên quan để lo việc quản lý cả quốc gia, toàn cung đình, phong chức cho các chư hầu và đặt ra chức tứ nhạc để thống lãnh các chư hầu 4 phương. Đạo của 3 thời đại Đường Ngu Hạ đều là giống nhau. Do đó trong sách Tả Truyện (Trang Công Bát Niên, Hy Công Nhị Thập Tứ và Nhị Thập Thất Niên, Tương Công Nhị Thập Lục Niên), sách Lữ Giám (tức Lã Thị Xuân Thu, thiên Dụ Đại) gọi chung 2 điển và 3 mô là Hạ Thư (kinh Thư của nhà (thời) Hạ), và (trong Bài 10 chương 15 Vệ Linh Công của Luận Ngữ) viết “Khổng tử viết “hành Hạ chi thời” (thi hành vào thời Hạ) như vậy có nghĩa là (lời nói trên) đã có ở thời của vua Nghiêu,vua Thuấn (bởi vì kinh Thư của 3 đời giống nhau như đã nói trên), và cái gọi “lịch số” rốt cuộc để chỉ “đạo chính trị” (đạo trị dân). Do đó ý nghĩa “Hạ chi thời” không phải chỉ để nói “ngày nguyên đán (đầu năm)”. “Lịch số” là do con người lập ra nhưng cái gọi là “thiên chi lịch số” (lịch số của trời) thì lại giống như “thiên tự”,“thiên trật”, “thiên công”. “Tứ nhạc” tức là “Bách quỹỷ 百揆” (chức quan Tể tưởng, bách quỹ: toan lường trăm việc) (thiên Thuấn Điển, kinh Thư). Đó là nhắc lại tư cách làm “bách quỹ” của vua Thuấn. Do đó một khi đã nói “cung nhiệm kỳ chức” tức là “tại nhĩ cung” (giao cho ông chức này). Cách nói này đã có từ trước.

“Doãn chấp kỳ trung” là để nói “đặt thân vào đế vị (lên ngôi vua)”. Cách giải thích được truyền lại từ trước đến nay cho là “nắm giữ lý (lẽ) không quá đáng và cũng không thiếu” (ý nói cách giải thích của Chu Hy) là sai lầm. “Chấp trung” giống như nắm lấy vị trí khu樞 (trung tâm, ngôi sao đứng đầu của 7 ngôi sao Bắc Đẩu, Thiên Khu). Ở cổ đại người ta đọc chữ hoàng cực 皇極là đại trung 大中 (thiên Hồng Phạm, thiên Ngụy Khổng Truyện trong kinh Thư). Giải thích này được tương truyền từ cổ đại đến đời Hán nên không thể nào sai. Các tiên vương ở cổ đại cung kính tuân theo trời xanh (hạo thiên) để tiếp xúc, quản trị dân chúng. Ở phía trên có trời, ở phía dưới có dân, thiên tử ở chính giữa, nắm giữ khu bính 樞柄 (quyền thế). Điều này gọi là hoàng cực. Do đó, việc lên ngôi vua gọi là “chấp kỳ trung”. Do đó, nếu không phải vậy, thì tại sao khi Tử Tư viết sách Trung Dung (theo như giải thích của Chu Hy) không có lần nào trích dẫn lời truyền thụ của vua Nghiêu, vua Thuấn để làm cơ sở căn bản.
Đối với chú thích của câu “Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung” thì chú thích của Hà Yến là lộn xộn không đúng, của Chu tử là thích hợp. Nội dung vua Nghiêu truyền đạt cho vua Thuấn, vua Thuấn truyền đạt cho vua Vũ chỉ là cảnh giác vị vua kế tiếp cần phải kính phụng theo ý trời.

Khổng tử khi nói với Nhan Hồi về việc thực hiện đức nhân chỉ đề cập đến việc tu thân (Bài 1 chương 12 Nhan Uyên) (bởi vì Nhan Uyên không phải là vua). Phải nói rằng đạo (quỹ揆). của tiên thánh (thánh nhân đời xưa) và hậu thánh (thánh nhân đời sau) chỉ là một (“Tiên thánh, hậu thánh kỳ quỹ nhất dã”, Bài 1 chương 8 Ly Lâu hạ, sách Mạnh Tử).

Các Nho gia đời sau nhất định muốn lời trong sách phải có ý nghĩa vi diệu như giảng giải đạo đức nhân nghĩa, nên không chịu nhìn thấy phương châm của Khổng tử là chỉ thuật y hệt lại việc làm của tiên vương không thêm bớt hay đặt ra điều mới. Phải chăng việc này tự bộc lộ cách nhìn hũ lậu của các Nho gia chủ trương lý học.

Jinsai lại căn cứ vào bài này, lời đề cập đến “đạo kinh” trong thiên Giải Tế của sách Tuân Tử, và câu “nguy vi tinh nhất” của thiên Đại Vũ Mô (trong kinh Thư) mà cho rằng thiên này là tác phẩm giả tạo của các Hán Nho. Lý do của chủ trương này là bởi vì Jinsai đặt tin tưởng sâu đậm vào Mạnh tử, không để tâm nhiều vào kinh Thư nên lấy giải thích của Chu tử để lý giải nội dung của kinh Thư và tỏ ý chê kinh Thư.

Lòng dân đáng kinh sợ (dân tâm khả úy) giống như “chế ngự 6 con ngựa bằng dây thừng cũ mục” (“nhược hủ tác chi ngự lục mã” ở thiên Ngũ Tử Chi Ca trong kinh Thư). Do đó, nói “dân tâm duy nguy” (ý nói quản trị lòng dân rất khó khăn). Hướng dẫn lòng dân cần phải tinh tế theo dõi sát các biểu hiện mới có thể quản trị an lành. Do đó sách mới nói “đạo tâm duy vi”. “Tinh” nghĩa là “tĩnh”. Người quản trị thiên hạ cần một mực thanh tĩnh không được hấp tấp vội vả. Cách viết của chữ “đạo kinh” rất gần với hình dạng chữ triện của “hạ” và “đạo” do đó sinh ra đọc sai. Bởi vì Tuân tử là Nho gia nên có lẽ nào trích dẫn lời trong sách của Lão tử, Mặc tử.

Ý muốn nói của sách Thượng Thư cũng chỉ là lời cảnh giác nên nội dung không khác với ý trong sách Luận Ngữ. Do đó, mới nói “vua Thuấn mệnh lệnh cho vua Vũ”, không có việc câu chấp vào số chữ như Jinsai đã đề cập. Trong (bài 26 chương 13 Tận Tâm thượng) sách Mạnh Tử chê “Tử Mạc chấp trung”. Cần phải hiểu từ “chấp trung” ở bài này không phải có nghĩa như từ “chấp trung” (nghĩa là lấy chính giữa của 2 cái) trong sách Mạnh Tử vừa nói.

Đối với câu “hoàng hoàng hậu Đế” trong bài, Khổng An Quốc chú giải “Hoàng là to lớn, hậu là vua. “Vua lớn lớn” ý nói là thiên đế ” (Cổ Chú). Trong Luận Ngữ Tập Chú, Chu tử không trích dẫn nội dung này. Bởi vì, ý nghĩa câu này đã rõ ràng. Đối với “Đế thần” thì Chu tử theo Cổ Chú cho là vua Kiệt. Giải thích này đúng.

Đối với “Chu hữu đại lại, thiện nhân thị phú.”, Hà Yến nói “Nhà Chu được trời ban cho ơn lớn, có nhiều người tốt. Quan chức cai trị tài giỏi (loạn thần) có đến 10 người (Bài 20 chương 8 Thái Bá, Luận Ngữ)”. Giải thích này đúng. Chú thích của Chu tử viết ““thiện nhân thị phú” là mọi người đểu là người tốt”. Mặc dù đương thời có thể là xã hội của thánh nhân nhưng làm sao có việc tất cả mọi người đều là người tốt! (Ý nói chú thích của Chu Hy sai)

Đối với “Tuy hữu chu thân, bất như nhân nhân.” Chu tử chú thích “Mặc dù vua Trụ có nhiều người thân thuộc nhưng không bằng việc nhà Chu có nhiều người có đức nhân”. Giải thích này đúng. Khổng An Quốc chú thích ý câu trên chỉ việc (Chu Công Đán, con thứ 4 của Văn vương) giết chết Quản (tức Quản Thúc, con thứ 3 của Văn vương), Thái (tức Thái Thúc con thứ 5 của Văn vương), và dùng Cơ (tức Cơ Tử, chú của Trụ vương), Vi (Vi Tử, anh của Trụ vương). Nội dung giải thích này không hợp lý.

Đối với “tu phế quan”, Jinsai giải thích là “Quan lại thời xưa theo cách cha truyền con nối, từ đời này qua đời khác”. Ở cổ đại quả đúng là có việc này. Tuy nhiên tại sao lại phải trích dẫn việc này ở đây để giải thích câu này! Hơn nữa, ở cổ đại, đối với việc cha truyền con nối chỉ có quan lại cấp thấp (hữu tư). Trong sách Xuân Thu (Công Dương Truyện, Ẩn Công Tam Niên) phê phán việc cha truyền con nối của các chức quan, đạo của cổ đại không có việc cha truyền con nối đối với các chức công, khanh và đại phu.

Đối với “Khoan tắc đắc chúng, tín tắc dân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, công tắc duyệt.”, Jinsai nói “Trong phiên bản của sách Luận Ngữ xuất bản trước đây thì bài này được sắp xếp vào Bài 1. Tuy nhiên, nội dung của bài này không có liên quan về sự tích của Võ vương. Hơn nữa, Khi so sánh bài này với nội dung của Tử Trương hỏi về đức nhân (trong Bài 6 chương 17 Dương Hóa) thì đại khái giống nhau, trừ đi 1 nửa phần đầu. Ở đó (tức Bài 17.6) thì trước “Khoan tắc đắc chúng” là “Cung tắc bất vũ” (Cung kính thì không bị khinh nhờn). Có lẽ bởi vì bài kế trong chương này cũng là câu hỏi Khổng tử của Tử Trương nên sai lầm, ghi lại 2 lần.” Phải nói Jinsai đọc Luận Ngữ kỹ lưỡng! Tuy nhiên, tại sao ngoài câu nói của Khổng tử trả lời cho câu hỏi của Tử Trương không thể có một câu nói tương tự khác!

Việc Jinsai căn cứ không có chữ “công公” trong sách Luận Ngữ để phản đối Tống Nho thì có thể nói giống như “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” (Trích dẫn từ thi tập Sở Từ: “trừng ư canh nhi xuy tê hề”) (nghĩa là bị 1 lần phỏng lưỡi mà sau đó đối với các món ăn nguội cũng thổi rồi mới dám ăn). Nguồn gốc của cái mà Tống Nho gọi là “công của thiên lý” thật sự là xuất xứ từ quan niệm của Lão Trang. Tuy nhiên, bậc thánh nhân nào có chán ghét “công” đâu! “Không thiên vị, không bè phái” (“vô thiên vô đảng”, thiên Hồng Phạm, kinh Thư) là châm ngôn của người làm vua. “Yêu thích cái dân chúng yêu thích, chán ghét cái dân chúng chán ghét” (thiên Đại Học, sách Lễ Ký) không phải là tinh thần của “công” sao? Đạo của người quân tử “chán ghét việc nắm giữ 1 mà bỏ đi cả 100”. Do đó, sự thiếu thích đáng của Tống Nho cố chấp 1 chữ “công” và việc Jinsai chán ghét chữ “công” có thể nói như nhau.

Nhận xét

(1) Giải thích của Sorai cho Bài 20.1 trong Luận Ngữ Trung của ông rất đáng tham khảo nên người dịch đã cố gắng biên dịch để giới thiệu quý độc giả. Bài giải thích này là một trong số ít các bài giải thích dài trong Luận Ngữ Trưng. Ông là người chủ trương ngôn từ chữ Hán cổ đại có ý nghĩa khác với thời sau này, nên không thể dùng ý nghĩa hiện tại của chữ Hán để lý giải các kinh sách cổ điển. Nội dung chú thích trên của ông cho chúng ta thấy được điều này. Một điều đáng chú ý là Tuân tử cũng có quan điểm tượng tự.

Vì nội dung bài này đã quá dài nên phần giải thích của Sorai cho các bài 20.2, 20.3 xin phép dành cho cơ hội khác trong tương lai.

(2) Việc Sorai phê phán chủ trương của Jinsai về “công” theo người biên dịch nghĩ là quá đáng vì “công” của Jinsai muốn nói, cụ thể là “cách ứng xử khi người thân như cha mẹ hoặc con cái bị phạm tội không thể giống hệt như cách ứng xử với người không thân thuộc bị phạm tội”, khác với “công” của Sorai, “yêu thích cái dân chúng yêu thích, chán ghét cái dân chúng chán ghét”.

Nguyễn Sơn Hùng

5~8/6/2025


(Phần Luận Ngữ Trưng xong 20/6/2025)

Tài liệu tham khảo

1) Kaitsuka Shigeki (1983): Itô Jinsai, Danh Tác của Nhật Bản 13, Chuokouronsha

2) Itô Jinsai: Luận Ngữ Cổ Nghĩa (nguyên văn)

3) Ogyu Sorai: Luận Ngữ Trưng, Ogawa Tamaki dịch chú (1994), Heibonsha.

4) Ogyu Sorai: Luận Ngữ Trưng (nguyên văn chữ Hán) (phiên bản của Quốc Lập Công Văn Thư Quán)

5) Chu Hy: Luận Ngữ Tập Chú, Tsuchida Kenjirô dịch chú (2014), Heibonsha.

     Ảnh Seoul 1900