18 thg 3, 2025

Người Chị Tên Thường - Thuyên Huy

 


NGƯỜI CHỊ TÊN THƯỜNG

Cho một người chị không phải người trong chuyện

   

    Hôm nào cũng vậy, từ ngày đổi về dạy trường trung học quận ở đây, chắc cũng chừng hơn hai tháng, trường nằm ngó ra bến xe bên kia đường, xuôi ngược lên tỉnh xuống thành, lúc nào cũng đông người đến người đi, người bán hàng lỉnh kỉnh, tiếng gọi tiếng rao nghe rõ mồn một, vang rân cả một khúc ngã ba, có hôm vô tới sân trường.

    Tới giờ nghỉ trưa, là anh thả bộ về nhà trọ, dưới khúc quanh không xa, anh thường đứng lại ở góc đường, nhìn hai đứa nhỏ, một gái một trai, chắc là chị em, chị chừng chín em độ sáu bảy, đầu tóc màu khét nắng, chị bưng cái mâm đan bằng tre, đựng mớ bịch bánh tráng kẹo, đứa em khệ nệ cái rỗ đội trên đầu, mấy xấp bánh tráng dẽo, chạy lúp súp theo mấy cái xe đò, đậu lại chờ đón thêm khách, miệng mời tiếng ông tiếng bà, thằng nhỏ trông thật dễ thương và xem ra lanh lợi, lúc nào cũng thấy cười toe tét.

    Nhìn hai đứa mà lòng cứ ray cứ rứt, con cái nhà ai tội nghiệp, ngày qua ngày anh cảm thấy có cái gì là lạ trong đầu, thấy mà thương thương làm sao đó, nhất định sẽ làm quen cho được.

*

    Trưa thứ sáu, nắng chang chang, trời cũng cái nóng như mấy ngày trước, bến vắng xe, đám người bán hàng tụ nhau tốp ba tốp năm, ngồi nghỉ dưới tàn mấy gốc me lớn bên kia đường, xen kẻ giữa những cái sạp bán hàng, không có mấy người mua.

    Từ trường ra, cũng đi men theo bên này lề đường như thường lệ, chưng hửng nhìn qua bên kia, ngó lên ngó xuống, không thấy bóng dáng hai chị em đứa nhỏ đâu hết, lấy làm lạ, anh băng đại qua đường, lẹ chân đi gần tới chỗ mái hiên nhà cuối dãy phố, sau gốc cây me vắng, đầu bến xe, không thấy thằng em, chỉ thấy có con bé chị ngồi một mình nhìn ra đường ăn dỡ dang trái bắp nguội.

    Con bé ăn nói dễ thương, một dạ hai thưa, mặt mày xinh xắn, trả lời anh mà mắt rưng rưng muốn khóc, em nó hôm nay bị bệnh, nóng ho, ở nhà với mẹ, nhà nó nghèo lắm, mẹ có tật, chân bị què, đi khập khễnh, phải chống nạn, mắt kém, nó học tới lớp nhì ở miền nào xa lắm, rồi thôi, nó không nhớ ở đâu, mẹ dắt hai chị em trôi giạt về đây, ở đậu bên chái hiên sau của cái chùa nhỏ cuối chợ quận. Anh giựt thót người nhìn con bé, khi nói tên mẹ nó là “Thường”.

    Anh hỏi lại, con nhỏ giờ mới cười “dạ”, anh thừ người ngó ra hướng dưới chợ, lầm thầm “chị Thường”. Anh không giàu có gì, nhưng cũng đủ tiền mua trọn cái mâm bánh tráng kẹo và bánh tráng dẽo của hai đứa nhỏ, nghỉ bán sớm, có cái gì đó linh tính làm anh cứ nghỉ ngợi suốt mấy ngày, nên nhất định phải theo về chỗ ở của hai đứa nhỏ cho bằng được.

     Trời buổi sáng chưa nắng, vừa tới cổng chùa, cái cổng rĩ sét, khép hờ không đóng, thằng nhỏ vừa chạy vào vừa hô to:

     -Má ơi má ơi, bán hết rồi má ơi!

    Không thèm đợi chị nó và anh ở đằng sau, tới chái hiên đứa con gái chỉ về hướng người đàn bà, quần áo một màu nâu bạc phết đang cặm cụi, khập khễnh đở mấy tấm vạt tre đan, trải bánh tráng lên cái giàn cây, dựng sơ sài phơi nắng, con nhỏ bỏ cái mâm xuống, đi lẹ về chỗ người đàn bà, nói vọng lại:

    -Má con đó

     Nghe tiếng nó, người đàn bà bỏ tấm vạt xuống, quay lại, anh cũng vừa kịp tới, anh chết trân, đứng bất động:

    -Trời ơi chị Thường!

    Chị cũng há miệng bật khóc:

    -Cậu út.

*

    Chị Thường, chừng mười lăm mười sáu, không biết ở đâu, ông sư già dẫn về ấp chợ ở, lo đèn đuốc, quét dọn như “ông từ” trong chùa, chị siêng năng, nói năng nhỏ nhẹ. Nhà anh ở cuối phố, ba má chỉ có anh là con, lúc đó mới lên tám, ông bà cũng già, có miếng vườn trồng lộn xộn, xoài bưởi, cam quýt, không lớn nhưng bán cũng bộn tiền, mấy năm trước anh còn nhỏ, chẳng biết ất giáp gì công việc coi sóc, cứ chạy nhảy theo ông bà, hết mương này tới mương kia, tưới cây tĩa nhánh, nhưng ngày qua ngày ông bà thường bệnh luôn, không chỉ mõi chân, nhức tay mà còn ho hen, thấy chị Thường dễ thương, thật thà, ông bà xin ông sư già cho phép chị tới phụ việc, lo giùm một tay hàng ngày.



    Từ đó, mỗi sáng sau khi lo nhang đèn ở chùa chị nhanh nhẹn chạy qua vườn làm việc đã giao, chẳng những vậy, chị còn không quảng ngại việc nhà, chị nhanh nhẹn giúp má, nấu nướng giặt giũ, nhiều khi chị làm cả chuyện thoa dầu nắn bóp chân cẳng ông bà những lúc trở gió trái trời, ba má thương quá đi mất, xem chị như con, ông bà lo cho chị thêm tấm quần miếng áo ngoài số tiền trả công hàng ngày.

    Chị còn lăng xăng bận rộn với anh, nào là tắm rửa, cơm nước, chơi đùa, anh giờ quấn quít bên chị hơn là lẽo đẽo theo ba theo má như ngày trước, anh thương mấy con trâu con gà, trái cam trái xoài mà chị mằn mò nắn bằng đất sét lấy từ đám đất cày ngoài ruộng cuối làng, thương những cái đó và thương luôn chị nữa.

   Cứ vậy, vài tháng sau ông sư già viên tịch, vài ông bà lớn tuổi trong làng, đứng ra lo liệu, nhang đèn, chuông mõ chờ người sư mới thế, không biết họ bàn với ba má anh thế nào, chị Thường khăn gói về ở hẳn nhà anh, trong nhà từ đó có chị thêm vui. Có lần má anh bị bệnh nặng, chị theo lo cho bà tận dưới nhà thương quận, chị đi về, miếng cháo miếng thuốc cả mười ngày, thức đêm thức hôm mà vẫn nói cười luôn miệng.

    Năm anh lên lớp Đệ Lục trường tỉnh, có anh trai ấp chợ phải lòng, quen không bao lâu, xin hỏi cưới, ba mẹ vui lòng, con gái lớn rồi, mừng cho chị. Hè năm đó, đám cưới xong, chồng chị nhập ngủ, chị theo chồng lên một tỉnh sát biên giới nơi đơn vị anh đóng. Từ đó nhà vắng hơn trước, còn lại ba má già yếu thêm, miếng vườn không ai coi sóc, hoa trái dường như vắng chị cũng buồn, không còn rộn ràng trổ, mặc cho mùa tới và cũng từ đó anh không gặp lại chị Thường.

    Năm anh lên Đệ Nhị, má mất vì căn bệnh tiểu đường kéo dài, ba đem má về chôn ở cái nghĩa địa, có mồ mả ông bà, miếng vườn bán rẻ lại cho ai đó, rồi ba dọn về trên tỉnh.

*

    Hai chị em cứ nhìn nhau mà khóc, hai đứa nhỏ chẳng biết tại sao, đứng xa một khoảng ngắn, dáo dát ngó rồi thúc thít khóc theo. Bà sư cô già đứng nhìn từ góc sân nãy giờ, buồn thiu, đưa tay ngoắt rồi quay lại bỏ đi, hai đứa nhỏ chạy theo bà về hướng chánh điện. Cả hai ngồi xuống cái băng cây đặt dài theo chái hiên, có tiếng chuông ngân dài ra từ chánh điện, chị sụt sùi kể chuyện mình, anh rươm rướm mắt nghe:

    “Theo chồng về tỉnh xa, chị sinh ra con chị trước rồi thằng em sau, năm thằng em lên ba thì không may chồng chị tử trận, người ta đem anh về chôn ở một nghĩa trang quân đội, vốn tứ cố vô thân, chị dắt hai đứa nhỏ về lại quê cũ, tìm nhà ba má anh, nhưng nhà không còn đó, chòm xóm giờ cũng lạ, ở tạm ai đó một hai ngày rồi trôi giạt xuống đây, nhờ có người bạn hàng thương tình chỉ đường đi nước bước cho việc bán hàng bến xe, chắc kiếp đời đã định vậy, một lần nữa chị nương náu cửa chùa”.

*

    Bải trường, học trò nghỉ hè, từ giã bà sư cô già, từ giã chái hiên cửa chùa, chị dắt hai đứa nhỏ theo anh đón xe đò về tỉnh, gia tài của ba mẹ con mang theo xếp gọn không đầy hai túi xách bằng vải, thêm bộ quần áo mới hai đứa nhỏ mặc lần đầu mà anh đã mua cho ở chợ quận ngày hôm trước.

    Trên chuyến xe đò lớn sáng hôm đó, chị Thường ngồi nhìn hai đứa con, ngây thơ, vô tư chỉ chỏ cảnh vật ngoài cửa kiếng nói cười, chị sung sướng cười vui lây nhưng cười mà khóc.

    Anh ngồi nhìn, cũng một lần nữa như lần cầm trên tay con trâu trái cam ngày cũ, nắn bằng đất sét mà chị đã làm, thương mấy cái đó bao nhiêu thì giờ đây, anh cũng thương cho người chị tên Thường bấy nhiêu.

 

Thuyên Huy

Viết lại từ một chuyện đã cũ 2022 cũng là chuyện tưởng tượng.


Tranh Lê Đình Quý

CHIỀU THU -Ryokan Taigu


 Chiều thu

(Ryokan Taigu)
Bên rừng xao xác khí thu lan,
Trước ngõ sau sân gió lạnh tràn.
Khói toả thôn nghèo trong núi thẳm,
Người về cầu đá giữa đồng hoang.
Quạ già cây lớn thôi tìm tổ,
Én mỏi trời xa hết gọi đàn.
Duy chỉ tăng nhân choàng áo thẫm,
Lặng nhìn sông vắng bóng chiều loang.
秋暮
秋氣何蕭索,
出門風梢寒。
孤村煙露裏,
歸人野橋邊。
老鴉聚古木,
斜雁沒遙天。
唯有緇衣僧,
立盡暮江前。
Thu mộ
Thu khí hà tiêu tác,
Xuất môn phong sao hàn.
Cô thôn yên lộ lý,
Quy nhân dã kiều biên.
Lão nha tụ cổ mộc,
Tà nhạn một diêu thiên.
Duy hữu truy y tăng,
Lập tận mộ giang tiền.
________________
* Pháp Hoan dịch từ nguyên tác tiếng Hoa của thiền sư Ryokan Taigu (Lương Khoan Đại Ngu, 良寛大愚).
* Artwork by Japanese artist.

Mời Xem :

17 thg 3, 2025

Trên Đỉnh Tình Yêu & Nổi Nhớ Mùa Hè - Nguyễn Thị Châu

 TRÊN ĐỈNH TÌNH YÊU


 
















Tình yêu thương đến từ nơi đâu?

Mà sao, người nhớ kẻ thương sầu

Cho đi, nhận lại, lòng lưu luyến

Xa cách nhau rồi, dạ thấy đau

 

Lặng ngắm hoàng hôn khuất chân trời

Một màu tim tím, áng mây trôi

Lang thang chim én bay về tổ

Lạc mối tơ chùng nhớ xa xôi

 

Nhiều đêm trăn trở tim đau nhói

Thầm hỏi tình yêu có thuở nào?

Mà sao giết chết bao thế hệ

Bao người khổ luỵ hỡi trời cao!

 

Có những vần thơ vui ca tụng

Những cốt chuyện đời, chuyện lứa đôi

Hai chữ tình yêu luôn đẹp lắm

Là những mủi tên giết chết người ….!!!

 

 12-3-2025

 Nguyễn thị Châu



NỖI NHỚ MÙA HÈ

 

Hoa rơi ngoài ngõ, gió Xuân trôi

Nắng vàng rực cháy đón Hè thôi

Mây trắng giăng ngang trời xanh biếc

Hè ơi! Hè đã đến đây rồi

 

Nhớ lắm ngày xưa dưới mái trường

Ngắm nhìn Phượng đỏ sao vấn vương?

Bụi phấn thời gian không còn nửa

Để lại trong tôi kỷ niệm buồn

 

Khúc nhạc, ve sầu râm ran hát

Gợi nhớ, gợi thương tuổi học trò

Mỗi độ Hè sang lòng xao xuyến

Tiếng cười, tiếng hát các em thơ

 

Tuổi đời ngày tháng cứ qua mau

Kỷ niệm ngày xưa khó phai nhoà

Cứ nhớ, cứ thương và cứ đợi

Ngày về bến cũ, con đò xưa…!!!

 

12-3-2025

Nguyễn thị Châu




  

Thy Lệ Trang họa bài ÁO TÍM NGÀY XƯA của Cang Nguyễn

 Thy Lệ Trang họa bài ÁO TÍM NGÀY XƯA của Cang Nguyễn

 

TƯƠNG PHÙNG / Thy Lệ Trang

 

Người về giữa nắng ban trưa

Bụi Hồng như đã chạm vừa gót son

Dịu dàng muời ngón tay thon

Đan thương, đan nhớ dệt tròn lời thơ

Bao mùa nắng đợi , mưa chờ

Bao đêm ắp ủ xây đời hằng mơ

Trở về ngày tháng ngây thơ

Xôn xao dạ đó… dật dờ hồn đây!

Gió nâng tà áo em bay

Ngàn hoa tím dại nở đầy đồi hoang

Chim trời dừng bước lang thang

Cánh mềm vỗ nhẹ, nhịp nhàng tiếng kêu

Tường xưa dù đã xanh rêu

Trên giàn Thiên lý đẫm nhiều mùi hương

Người về giữa bên sông Thương

Trời xanh quyện với môi Hồng thêm xinh

Thuyền con lướt sóng mông mênh

Lung linh ánh nước đôi hình khắc ghi!

 

Thy Lệ Trang

 

ÁO TÍM NGÀY XƯA/ Nguyễn Cang

 


















Em nằm say giấc ngủ trưa

Bàn tay ngà ngọc che vừa môi son

Tóc dài buông xõa eo thon

Ru em giấc ngủ cho tròn tuổi thơ

Mai đây khôn lớn đợi chờ

Cho anh gánh trọn một đời mộng mơ

Đò chiều tách bến Cần Thơ

Trời Tây- ninh cũng dật dờ từ đây

Anh về nhớ áo tím bay

Cali nắng ấm ngập đầy thềm hoang

Chiều tàn dạo bước lang thang

Đông về rét mướt khẽ khàng dế kêu

Anh về giũ hết rong rêu

Nhìn tầng mây xám nhớ nhiều quê hương

Mai về thăm lại em thương

Môi hồng vẫn thắm má hồng vẫn xinh

Ta giờ cuộc sống lênh đênh

Quê hương vẫn nhớ bóng hình vẫn ghi

 

Nguyễn Cang (Feb. 9, 2025)

Đặng Kim Côn: NHỮNG CON VỊT TRỜI (T.Vấn Và Bạn Hửu )

 

Mallards in a Farmyard – Tranh: John Frederick Herring Sr. (Nguồn: www.sothebys.com)

Một thời gian dài, thằng bồ của con gái tôi đi làm ăn xa, bầy vịt trời phía sau nhà, vô tư nhởn nhơ bơi lội quanh cái hồ lớn, có vẻ như chúng sinh sản vội vã hơn, ấp trứng ngắn ngày hơn, lông cánh mọc nhanh hơn để kịp chống chọi với sự truy sát của hắn, một kẻ thường khoe là cả một thời niên thiếu trưởng thành trên ghe thuyền, lênh đênh sông hồ, ăn tươi nuốt sống những con vật bắt được trên sông nước.

Có lần tôi thấy, một con vịt trống đứng canh chừng cho con vịt mái đẻ trứng nơi bụi cây ngay trước cửa ra vào, bị gã “giang hồ” kia lấy trứng (lúc đó gã ra xe đi làm, không kịp chờ cho con vịt rời tổ), cả hai vợ chồng con vịt tung lên vừa la oạp oạp vừa đá kẻ cắp, tất nhiên rồi cũng bị mất trứng, để rồi chúng lại “xây” cái chỗ đẻ khác, và rồi, lần lượt hai con vịt cũng không tránh khỏi bị gã giang hồ cho vào nồi nước sôi, chả là, gã nghiện món tiết canh, nghiện đàn đúm bia rượu cho những chuyện trả nợ ân nghĩa có lợi cho cái việc hắn gọi là làm ăn, mà đối tác của hắn đã không tiếc lời ca ngợi có tài, cái tài chinh phục đám vịt trời và chế biến tiết canh.

Có vẻ là gã cũng ngó chừng tôi, vì dù tôi chỉ là một người thuê phòng, nhưng là mẹ của đứa con gái mà gã đang cố níu áo, chắc cũng nuốt vội nuốt vã, tránh sự phát hiện của tôi, vì biết tôi rất thương yêu chúng. Có điều, làm sao tránh hoài được, khi mà chúng tôi cùng ở chung nhà, ăn chung mâm. Bầy vịt bao nhiêu con, tôi gần như nhớ mặt hết, cứ lâu lâu mất một con là tôi nói xa nói gần, mà xa gần thì có dốt mấy gã cũng thừa biết tôi nói ai, “Cô nghĩ, chỉ có mấy thằng nhậu nhẹt Việt Nam, cứ uống máu được một con vịt thì cái da mặt chúng nó mới dày thêm lên một chút, tới mức, thà chịu chửi cha chửi mẹ còn hơn phải nhịn thèm”. Tôi nhìn thẳng mặt hắn, có vẻ hai cái răng nanh đang chực thòi ra như Dracula, mỗi lần ngang qua đàn vịt ấy, cũng có phần thụt vào, khi nghe tôi than phiền, nhưng rồi, chỉ tội nghiệp cho những lời nói của tôi (hay tội cho bầy vịt) vì nói gì cũng trôi tuột như nước đổ đầu vịt.

Chung cư chúng tôi ở đa số là dân Haiti, họ thân thiện với mọi người chung quanh và cả với mấy bầy vịt trời trên hồ. Tôi thường thấy họ đem bánh mì, thực phẩm khô cho vịt ăn, và trong suốt thời gian gã giang hồ ấy đi xa, đàn vịt chỉ có thêm chứ không hề giảm bớt.

Sáng sáng chiều chiều tôi cũng cho vịt ăn, thay vì đổ cơm cũ vào sọt rác, thì cho chúng ăn đỡ buồn. Vịt Mỹ không chê cơm Việt, mà có vẻ còn háo hức hơn thực phẩm Tây, chả là hễ cứ thấy bóng dáng tôi, là cả bầy, nhiều bầy lao vội đến, có nhiều con từ bờ bên kia hồ rộng bay xào xào sang, rúc lấy rúc để, chỉ một loáng mấy tô cơm nguội không còn một hạt, rồi hả hê ưỡn ngực vỗ cánh lao xuống hồ…

Cứ thế, ngày tháng trôi đi. bầy nọ lớn lên, bầy khác làm tổ đẻ trứng, quanh tôi là cả một sự sống sung mãn, tươi tắn, xoay vần.

Một cái tổ bảy trứng dưới gốc cây đầy lá khô cuối thu, ngày nào tôi cũng thấy vịt mẹ ấp, có khi cả hai con trống mái cùng ấp (không biết có phải là bố chúng hay không nữa, có khi theo nịnh đầm để hưởng cú bỏ guốc cũng nên), dễ chừng không mấy ngày nữa thì sẽ có thêm một bầy vịt con mũm mĩm lạch bạch trên thế gian này.

Bất giác chiều kia trời đổ gió, gió tung trời như muốn lật úp cà thành phố, và, lạnh xuống!

Một trận mưa lớn, kéo dài mấy ngày, đài khí tượng loan báo bão, nhiều hãng xưởng đóng cửa, nhiều người không đi làm được, trong đó có tôi. Buổi sáng, như lệ thường, tôi lấy cơm ra cho vịt, một hồ nước trắng mênh mông, đàn vịt đã biến mất không còn một con nào. Chúng đã thiên di đến một nơi ấm hơn? Nơi nào mới là quê hương chính của chúng? Tôi sống nơi này chưa tròn một năm, nên không biết rõ sinh hoạt của chúng thế nào. Tôi chợt nhớ cái tổ trứng trước nhà, thật may, vẫn còn nguyên đó, không biết là mẹ chúng bỏ tổ từ lúc nào, trước hay sau khi bão tới, mà, tôi là người, không nắm được sinh hoạt của chúng, chứ không lẽ, vịt trời cũng không quen được quy luật của bốn mùa sao? Cứ đẻ đại rồi bỏ, thì khác gì mấy cô chửa hoang?

Tôi đem hết bảy quả trứng vào nhà, lấy quần áo cũ ủ ấm, mở sưởi trong nhà, phập phồng lo, bị mẹ bỏ ấp mấy đêm e trứng ung mất. Cũng tự an ủi, nhiều trứng vịt lộn già, mua về không ăn kịp, để trần trần trên bàn mà nó vẫn nở. Chắc là không sao đâu.

Vâng, nhờ trời không sao, đến ngày thứ ba (ba ngày liền tôi để tiệm cho con gái coi, chạy đi chạy về thăm chừng), thì chỉ trong một buổi, bốn con vịt nở, còn ba trứng nằm im. Chao ôi, những con vịt con đáng yêu làm sao! Nó mướt rượt, vàng óng, mới nở đã mở tròn đôi mắt (nhìn tôi) trong veo hòa nhập với cuộc đời. Tôi có phần lúng túng lúc đầu để tìm cách chăm sóc thích hợp nhất cho chúng. Việc đầu tiên là giữ cho chúng không đi lung tung, bốn con thì chỉ cần bỏ vào một cái sọt đựng quần áo, lót giấy báo cho nó vệ sinh, thay mỗi ngày, bóp bánh mì vụn, ngâm vào sữa cho nó ăn, qua một ngày không thấy chúng èo uột gì, ngày hai, ngày ba, có vẻ chúng mạnh hơn, thế là tốt.

Đám vịt “bạn cũ” của tôi không thấy quay về, trước mắt tôi còn có được bốn cô chú “chim cảnh” này, để thấy lòng hân hoan trông chúng lớn lên, cũng như thấy màu lông thay đổi từng ngày, để thấy những cặp mắt bớt ngơ ngác mà như mừng rỡ, như trông mong mỗi khi tôi đến gần, để nghe chúng lí nhí tập kêu, rồi có lúc tôi thả chúng trong nhà, chúng lúc thúc quanh quẩn chân tôi như tìm hơi mẹ.

Bốn con vịt đã ăn cơm được, chúng mau lớn, tôi chuyển chúng qua một cái thùng giấy và đặt trước hiên nhà, sáng sáng cho ăn cơm rồi thả cho chúng xuống hồ bơi đến chiều, khi đi làm về tôi “rú rú” mấy tiếng là cả bọn hối hả bay về… dùng bữa tối và được tôi tóm gọn vào “biệt phòng”, kết thúc một ngày nhởn nhơ bơi lội.

Năm nay lạnh dài, đám vịt trời thiên di kia không thấy trở về, nghĩa là bốn đứa con vịt mồ côi không biết đến bao giờ mới có cơ hội gặp lại bố mẹ. Thoắt mà ba tháng trôi qua, bầy vịt đã trỗ mã, cái thùng giấy đã được thay lớn hơn nhiều lần, tôi cũng đã có thể phân biệt được trống mái, con gái tôi than phiền, “Mẹ coi chừng ban quản lý chung cư đuổi, nếu không cũng bị phạt”, nhưng cũng may, có một vài lần nhân viên văn phòng xuống sửa chữa một vài việc lặt vặt, có thấy đám vịt mà họ đã không nói gì.

Và càng ngày chúng tôi, bầy vịt và tôi, càng khắng khít không thể thiếu nhau.

Có mất công tìm chỗ đậu xe chút, mà tôi cũng quên để ý mấy chiếc xe lạ đậu trước bãi đậu xe nhà chúng tôi. Định vào thay quần áo rồi trở ra cho vịt ăn, bất ngờ nắm cửa nhẹ tênh, không khóa trái, bên trong đang là một tiệc nhậu: thằng bồ con gái tôi và hai người bạn của gã đang ăn uống.

Gã bối rối mời tôi, vừa giới thiệu mấy người bạn, nhìn cái mồm nhai nhồm nhoàm cùng mấy vệt máu tóe ra mép gã, tôi liếc vội xuống mấy cái chén, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng làm tôi rùng mình, trên bàn, bên những chai bia lăn lóc, còn là một đĩa tiết canh đang ăn dở, và trong mấy cái chén thì đang nhòe nhoẹt những máu đỏ lòm. Gã lúng túng nói, “con có để dành cho cô trong tủ lạnh”, không trả lời, cũng không kịp vào phòng cất túi xách, tôi quay ngoắt ra cửa, nhìn qua cái thùng giấy rồi chạy vội ra hồ. Hồ vắng ngắt, rộng mênh mông, mênh mông hơn bao giờ. Cố nén xúc động, vớt vát chút hy vọng mong manh, chỉ là một lầm lẫn thôi, tôi đuổi mắt khắp hồ một lần nữa, không bỏ sót những căn chung cư bên kia hồ, may ra chúng đang được ai đó tốt bụng cho ăn.

Tôi cất tiếng gọi vịt thường ngày, mấy tiếng “rú rú” như nghẹn ngào trên mặt hồ lạnh lẽo, vang xa…

Mùa đông còn mù mịt như sương mù trên mặt hồ buổi chiều vắng lặng. Tôi ngồi xuống một tảng đá lớn, hai chân bủn rủn cơ hồ không đứng dậy nổi.

Tôi thầm mong một điều chưa bao giờ mong, bầy vịt trời đang thiên di đến một phương trời ấm áp nào.

Đặng Kim Côn

(Trích: LÓNG LÁNH TRỜI XƯA – tập truyện – TQH 2013)