Hai bên thì núi, giữa thì sông,
Có phải đây là kẽm Trống không?
Gió đập cành cây khua lắc cắc,
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
Ở trong hang đá hơi còn hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại,
Nào ai có biết nỗi bưng bồng.
Tác giả: HỒ XUÂN HƯƠNG
KÍNH HỌA 1 : KẼM TRỐNG
Hẻm hốc hai bên, chính giữa sông,
Nơi đây Kẽm Trống phải hay không?
Cây khua lắc cắc ru theo gió,
Nước vỗ tăng tăng sóng kéo bong.
Chui rúc bên trong hang khép hẹp,
Kéo ra khỏi cửa rộng thùng thùng.
Mình ơi qua cửa quay nhìn lại,
Để biết nơi bưng với chốn bồng.
HỒ NGUYỄN (19-11-16)
Họa 2 : Qua vùng Kẽm Trống
Núi ở hai bên, chính giữa sông,
Nơi đây Kẽm Trống phải hay không?
Cành cây lắc cắc khua theo gió,
Sóng nước rì rào gõ nhịp bong.
Vào tận bên trong, khe nhỏ hẹp,
Ra ngoài khỏi động, động to thùng.
Cửa mình vừa tới, thèm quay lại,
Để biết nơi đây chốn cõi bồng
Nguyễn Cang (19/11/16)
HỌA 3 : LEO NÚI KẼM TRỐNG
Núi đồi Kẽm Trống dọc bờ sông,
Thấy muốn lên liền ai chẳng không.
Thăm thẳm bờ khe hàng đủng đỉnh,
Xanh rì dốc suối cụm bòng bong.
Tê gân cầm gậy rà xoàn xoạc,
Mỏi gối nghe tim đánh thập thùng.
Mệt mấy cũng trèo cho tới đỉnh,
Em leo hết nổi để anh bồng.
LHN
HỌA 4 : BÚT THÉP CHƯA GIƯƠNG
Ngòi bút thăng trầm với núi sông,
Văn chương tải đạo đúng hay không?
Văn chương tải đạo người xưa nhủ,
Nào phải vô tư chuyện bóng bong!
Có kẻ xôn xao âu vận nước,
Người thầm thao thức suốt đêm thùng.
Hãy đưa bút thép chông ra biển,
Bút thép tiềm năng, vạn “cỏ bồng”.
NGÂN TRIỀU .
BÀI HỌA : KẼM TRỐNG
Núi đứng hai bên, giữa khúc sông,
Hỏi ai : "Kẽm Trống" phải hay không ?
Cành khô gió mạnh kêu răng rắc,
Sóng nước xô bờ tiếng vỗ bong.
Chật hẹp hang sâu nào có biết,
Sơn đầu nhú khỏi thấy thông thùng.
Nước non tới cửa mình quay ngắm,
Mới hiểu bưng sao chốn cỏ bồng !
Mai Xuân Thanh
(xin phép kính họa thơ "Kẽm Trống" của Nữ thi nhân thời danh Hồ Xuân Hương)
Ngày 22 tháng 11 năm 2016
HỌA 5:
Hai bên trên núi, giữa là sông,
Kẽm Trống địa danh có đúng không?
Tàu chạy, mưa rơi nghe lắc
rắc,
Thuyền đi, sóng vỗ tiếng long bong.
Có khi dòng nước co teo lại,
Đôi lúc bờ sông nở
rộng thùng.
Du khách đã qua, ghi nhớ mãi,
Dư âm cứ tưởng lạc Non Bồng!
Khôi Nguyên
===========
Kẽm Trống
Kẽm Trống là một di tích thắng cảnh quốc gia
được công nhận năm 1962. Đây cũng là một địa danh nổi tiếng đã được nhắc
đến trong thơ Hồ Xuân Hương. Kẽm Trống nằm cách Hà Nội 80 km về phía
Nam, gần quốc lộ 1A và ở giữa địa phận 2 tỉnh Hà Nam và Ninh Bình.
Kẽm Trống là khoảng trống được tạo ra bởi “hai bên là núi giữa là sông” như lời của nữ sĩ Xuân Hương đã vịnh cảnh:
“Hai bên thì núi, giữa thì sông
Có phải đây là Kẽm Trống không
Gió đập cành cây khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
Ở trong hang đá hơi còn hẹp
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng”
Sông ở trong bài Kẽm Trống là một đoạn con sông Đáy, bên tả là núi
Rùa, núi Cổ Động, núi Động Xuyên, núi Trinh Tiết trên địa phận xã Thanh
Hải, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Bên hữu là núi Bài Thơ, dãy núi Bạt
Gia gồm các núi Bồng, núi Vọng, núi Thòng Lọng và núi Rồng thuộc xã Gia
Thanh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Núi ở đây có nhiều ngọn cao thấp,
có núi đá, núi đất, nhiều ngọn dựng đứng nhưng cũng nhiều ngọn thoai
thoải, tạo nên các thế núi khác nhau.
Bờ bên trái, đằng sau những dãy núi nằm sát mép sông Đáy là một hệ
thống núi đá vôi trùng điệp, một dải núi đá kéo dài chạy theo hướng Đông
Bắc–Tây Nam từ Hòa Bình sang Thanh Hóa. Trong núi có rất nhiều hang
động. Trong núi có hang nhiều khi chỉ là những kẽ nứt nhỏ, nằm ẩn sau
những tảng đá to. Khi vào bên trong du khách mới thấy các hang động có
diện tích khá rộng, nhiều hang xuyên hẳn qua một quả núi, có hang có
thạch nhũ rủ xuống tạo nên những hình thù phong phú.
Về phía tả ngạn sông Đáy có một con sông đào dài gần 2 cây số, cả
hai đầu đều nối với con sông Đáy, chảy ôm núi Rùa và núi Cổ Động trong
quần thể thắng cảnh Kẽm Trống. Tương truyền, trong cuộc tuần du từ kinh
đô Huế ra Bắc Hà, vua Minh Mệnh muốn xuôi dòng sông Đáy để ghé thăm Kẽm
Trống và Địch Lộng (Ninh Bình). Nhưng khi nghe bài thơ của Hồ Xuân Hương
vịnh cảnh Kẽm Trống, thấy những ẩn ý nghịch ngợm, nhà vua không chịu đi
qua đoạn sông này mà bắt nhân dân trong vùng phải cấp tốc đào một con
sông mới để thuyền ngự vượt qua. Do vậy mới có con sông đào chảy vòng
này.
Vụ án “bò béo bò gầy”
Kẽm Trống chính là địa danh đã diễn ra một vụ án nổi tiếng dưới
thời vua Lê Hy Tông. Vụ án đó có tên gọi là “bò béo, bò gầy”.[1][2] Đây
là một vụ án cướp của giết người đặc biệt nghiêm trọng, kéo dài trên 20
năm, số người bị giết không thể tính hết, xảy ra tại hang Địch Lộng
thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, được phá án vào triều vua Lê Hy
Tông (1694). Sách Đại Nam nhất thống chí trong mục tỉnh Ninh Bình, phần
“Sông núi” ghi: “Núi Đa Giá cách huyện lỵ Gia Viễn 3 dặm về phía bắc.
Núi cao, hiểm vắng, nhiều hang hốc. Sau đời Lê Trung hưng, cạnh núi có
bọn dân ác xã Đa Giá Thượng cùng nhau lập khoán ước riêng, đặt điếm
tuần, giết hại hành khách, vứt xác vào hang núi lấy của, trải hơn 20 năm
làm tai hại cho khách qua đường…”.
Làng Đa Giá Thượng nằm ở phía nam bến đò Khuốt, trên đường thiên lý
Bắc – Nam, ngay dưới chân dãy núi đá vôi trùng điệp, hiểm trở. Có một
bọn trộm cướp hung đồ, khống chế được tất cả các chức sắc trong làng
cùng theo, dần dần hình thành cả một làng ăn cướp, có quy định khoán ước
với nhau rất chặt chẽ. Vì vậy, hoạt động phạm pháp của cả làng này kéo
dài trên 20 năm mà không hề lọt ra ngoài. Chúng lập ra một nhà trạm trên
đường thiên lý với “vỏ bọc” là một nghề kinh doanh ăn uống và nghỉ trọ.
Chủ quán lúc nào cũng cung cấp đầy đủ rượu ngon có pha thuốc mê, chuốc
cho khách no say. Khi khách đang ăn thì có người đi qua hỏi chủ quán:
– Nhà hàng mai có bò không, cho chúng tôi mượn với nhé!
– Có.
– Bò béo hay bò gầy?
– Bò béo!
Khách nghe thế không ngờ rằng đó là ám hiệu của bọn cướp với nhau.
Bò béo tức là khách giàu có. Bò gầy là khách nghèo. Bọn cướp căn cứ vào
ám hiệu của chủ quán mà quyết định hành động hay không. Đêm đến, khách
đang say giấc nồng thì chúng xông vào, trói giật cánh khuỷu, nhét giẻ
vào miệng, lôi lên núi đá. Trên núi có một cái hang rất sâu gọi là Kẽm
Trống, chúng xô khách xuống hang rồi về chia nhau tiền bạc.
Dưới thời vua Lê Hy Tông quyền hành nằm trong tay chúa Trịnh Căn.
Hôm ấy xa giá của chúa đi qua cửa Đại Hưng thì gặp một người phụ nữ, đầu
đội một lá đơn, sụp lạy trước kiệu, bị quân lính xua đuổi nhưng nhất
quyết không chịu lùi. Chúa cho dừng kiệu rồi sai người dẫn người này tới
hỏi chuyện thì mới biết chồng nàng đã bị bọn cướp giết, còn nàng bị bắt
về làm vợ một tên tướng cướp rồi sau hai năm mới trốn ra được. Khi nghe
xong câu chuyện và xem đơn của nàng, chúa lập tức sai Thạc quận công Lê
Thì Hải đem 2.000 quân tiến thẳng về Gia Viễn, bí mật áp sát làng Đa
Giá Thượng.
Chiều hôm ấy, có một thầy lang đi qua đò Khuốt rồi vào làng Đa Giá
Thượng. Ăn xong, khách nằm lăn ra ngủ. Nửa đêm hôm đó, bọn cướp xông
vào. Khách bị trói giật cánh khuỷu, nhét giẻ vào miệng rồi bị dẫn lên
hang núi. Nhưng, bọn cướp chưa kịp ra tay thì những tiếng hô vang trong
đêm tối làm trấn động cả núi rừng. Tiếng reo hò của 2.000 quân sĩ đồng
loạt nổi lên, vây bọc toàn bộ làng Đa Giá Thượng. Gần 300 tên tội phạm
đã bị bắt. Người ta xác định được 52 tên đầu sỏ, khép vào tội tử hình.
Số còn lại là tòng phạm, bị bắt đày đi châu xa. Làng Đa Giá Thượng bị
xoá sổ. Người ta đẵn tre làm thang, nối dây thòng xuống hang Kẽm Trống,
xúc được vô số hài cốt, đem lên hỏa táng…
Gần đây, tìm trong kho sách Hán Nôm ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, các nhà nghiên cứu phát hiện thấy có bài Văn tế xót thương u hồn ở
xã Đa Giá Thượng (Chuẩn tuất u hồn tại Đa Giá Thượng xã tế văn). Bài văn
viết vào tháng 5 năm 1694, không ghi tên người soạn, có thể là môn
khách của Thạc Quận công Lê Hải giúp ông soạn thảo để tế các vong hồn,
lời văn rất thống thiết, cảm động. Nội dung bài văn cho biết, số người
tử nạn cả thảy là 318 người, gồm lái buôn tinh nghệ công thương, nghệ sĩ
ở giáo phường hát hay đàn giỏi, người đi hành dịch, có cả những hành
khách đi ngao du thưởng ngoạn thắng cảnh non nước. Họ là những người
khác quê khác quán, do công việc cần thiết phải đi qua vùng này nên ngộ
hại.
*
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét