- Trò chơi dân gian
Trò chơi không chỉ dừng lại ở việc đáp ứng về mặt tinh thần của cá nhân, mà còn xa hơn, nó thể hiện vai trò trong các mối quan hệ của xã hội, nó cũng là một tham số cần được đề cập đến trong việc nghiên cứu cái xã hội. Người Việt hay cười, người Việt ham vui, nên người Việt cũng thích và sáng tạo nhiều trò chơi. Theo nghĩa rộng nhất, thì các loại hình sân khấu cũng chỉ là một trò chơi, ở đó mỗi người thoát ra khởi con người thật, để nhập thành con người giả, có tất cả những đặc điểm mà con người thật mong muốn và không mong muốn. Thậm chí, nhiều người quan niệm cuộc sống này cũng chỉ là một trò chơi lớn mà thôi. Như vậy trò chơi là một phương cách giúp con người cân bằng lại cuộc sống và tinh thần.
Trong các loại hình văn hoá dân gian của người Việt, tôi muốn lưu ý loại hình có yếu tố hoặc chủ yếu mang tính trí tuệ.
* Trước hết là cờ tướng, cờ tướng của người Việt du nhập từ Trung Quốc, người Trung Quốc sáng tạo nên tượng kỳ từ loại cờ cổ Saturanga của người Ấn Độ, loại cờ cổ Saturanga này, truyền bá về phương tây trở thành cờ vua. Khi người Trung Quốc sáng tạo nên tượng kỳ, đã có 2 thay đổi quan trọng, đó là chuyển vị trí đứng quân từ ô sang cột, có thêm hà và thêm quân pháo. Cờ tướng chỉ có 2 người chơi, các biến hình của nó được biết đến là cờ người, cờ úp và cờ tưởng. Một biến tướng đặc biệt của nó, là bộ tam cúc và tứ sắc. Với 2 loại hình này, số lượng người chơi đã tăng lên và việc thực hiện chơi cũng rất đơn giản.
* Tiếp theo là tổ tôm, tổ tôm được cho là có nguồn gốc từ Nhật Bản, tổ tôm thuộc loại khó chơi và thường chỉ dành cho đàn ông. Một biến hình khác của tổ tôm, là chơi chắn, chắn dễ chơi hơn tổ tổm, chỉ có 100 cây bài, ít hơn tổ tôm 20 cây. Cờ thì trí tuệ, còn bài lá thì đỏ đen.
* Một trò chơi dân gian khác, cũng rất đơn giản mà cũng rất trí tuệ, đó là trò Cơm canh rau muống. Đó là trò chơi mà, gồm 2 hình chữ nhật vuông góc ở giữa với nhau. Mỗi bên có 5 viên sỏi, 2 bên đi lần lượt, theo bất kỳ hướng nào, miễn sao đường đi không bị 1 quân (1 viên sỏi) nào đó cản lại, cứ cách 3 điểm trống liên tiếp là có thể ăn được bất cứ quân nào của đối phương. Khi đối phương không còn quân (viên sỏi) nào hoặc còn quân mà không thể đi được, thì khi ấy ta thắng. Loại hình trò chơi này có nhiều biến thể, những biến thể này phụ thuộc vào hình vẽ (của bàn cờ) và số lượng quân, cũng như số lượng điểm trống liên tiếp để có thể ăn. Có một loại hình, với tên trò chơi là: Kim mộc thuỷ hoả thổ. Trước hết, chúng ta không thể xác định được trò chơi Cơm canh rau muống và Kim mộc thuỷ hoả thổ, cái nào có trước và cái nào là biến thể của cái nào. Có phải trò chơi được đặt tên là Kim mộc thuỷ hoả thổ là vì vô tình để có thể ăn được quân của đối phương, thì quân của bên ta phải thực hiện đúng 5 điểm từ nơi nó đứng đến nơi quân của đối phương, vì thế mà do sự trùng hợp này, nên người ta mới gọi tên trò chơi là vậy ? Hay là bởi trò chơi dân gian này được sáng tạo ra với mục đích truyền tải một nội dung nào của thuyết ngũ hành ? Hay vốn đầu nó là một trò chơi Cơm canh rau muống, nhưng vì có sự trùng hợp, mà một người giỏi về Dịch đã cải tiến trò chơi để mang thông điểm về thuyết Âm dương Ngũ hành và đặt tên nó là Kim mộc thuỷ hoả thổ. Nếu để ý ta thấy có 2 người chơi và để tránh nhầm lẫn thì thường có 2 loại quân là đen và trắng (tượng trưng cho âm dương) và các quân âm hoặc quân dương phải thực hiện 5 bước kim mộc thuỷ hoả thổ để triệt hạ nhau.
* Một trò chơi khác cũng rất trí tuệ, nhưng điểm thú vị là trò chơi này thường dành cho con gái, đó là trò Ô ăn quan. Nói là dành cho con gái, bởi có một bài đồng dao rất hay liên quan tới trò chơi này, đó là: Hàng trầu hàng cau – Là hàng con gái – Hàng bánh hàng trái – Là hàng bà già – Hàng hương hàng hoa – Là hàng cúng Phật.
Ô ăn quan thuộc họ trò chơi mancala, có nguồn gốc từ động từ naqala có nghĩa là di chuyển. Mục tiêu cần đạt được để giành chiến thắng: người thắng cuộc trong trò chơi này là người mà khi cuộc chơi kết thúc có tổng số dân quy đổi nhiều hơn. Tùy theo luật chơi từng địa phương hoặc thỏa thuận giữa hai người chơi nhưng phổ biến là 1 quan được quy đổi bằng 10 dân hoặc 5 dân.
Cuộc chơi sẽ kết thúc khi toàn bộ dân và quan ở hai ô quan đã bị ăn hết. Trường hợp hai ô quan đã bị ăn hết nhưng vẫn còn dân thì quân trong những hình vuông phía bên nào coi như thuộc về người chơi bên ấy; tình huống này được gọi là hết quan, tàn dân, thu quân, kéo về hay hết quan, tàn dân, thu quân, bán ruộng. Ô quan có ít dân (có số dân nhỏ hơn 5 phổ biến được coi là ít) gọi là quan non và để cuộc chơi không bị kết thúc sớm cho tăng phần thú vị, luật chơi có thể quy định không được ăn quan non, nếu rơi vào tình huống đó sẽ bị mất lượt.
Mancala châu Phi: Bàn chơi thường có 12 ô (hay được khoét thành những lỗ), mỗi người chơi kiểm soát 6 ô gọi là nhà, ngoài ra có thể có 2 ô lớn hơn gọi là kho. Kho có thể chỉ được dùng để chứa hạt giống đã bị người chơi ăn chứ không phải để đặt quân vào trong lượt đi do đó không nhất thiết phải có. Trong một số biến thể, bàn chơi có 24 ô, chia làm 4 hàng 6 ô, mỗi người chơi kiểm soát hai hàng, tổng cộng 12 ô ở phía bên mình.
Không có quân tương tự như quan mà chỉ có một loại quân có vai trò như dân gọi là hạt giống. Số lượng hạt giống ở mỗi ô khi chuẩn bị chơi có thể là 3 hoặc 4.
Mancala ở các nước châu Á khác: Bàn chơi có 14 ô, mỗi người chơi kiểm soát 7 ô ở phía bên mình, không có ô như ô quan. Không có quân tương tự như quan mà chỉ có 98 quân khi chuẩn bị đặt ở mỗi ô 7 quân.
Chúng ta thấy rằng trò chơi Ô ăn quan của người Việt rất thực tiễn, có những yếu tố chính trị xã hội trong trò chơi. Nó thể hiện, một quan niệm, một sự suy tư của người Việt về thế giới. Trong các trò chơi tương tự như Ô ăn quan, thì chỉ trò chơi của người Việt mới mới có quân quan, các trò chơi khác không có quân tương tự như quân quan, quân quan lớn hơn quân dân và thường được tính bằng 5 hoặc 10 dân. Đây là một khác biệt khá thú vị. Trong trò chơi của người Việt, khi 1 viên sỏi (1 quân dân) là dân khi nó ở nhà dân, nhưng nó trở thành quan khi nó ở ô nhà quan, khi ấy người ta gọi nó là quan non. Cái thú vị nằm ở chỗ ấy! Người Việt tư duy rằng: cái quy định, cái phân biệt giữa dân và quan là ở ô, ở chỗ ngồi, ở cái ghế. Người ngồi ở ô ấy, người đó là quan, kẻ không ngồi được thì đó chính là dân. Lại nhớ đến một ý của Đỗ Lai Thuý khi viết về người Việt: Người Việt một mặt vẫn cười những vị quan lại, nhưng mặt khác lại vẫn muốn trở thành họ. Qua trò chơi này, chúng ta đã thấy rõ, thực chất, một mặt người Việt cười là cười cái vị quan cụ thể, nhưng mặt khác người Việt vẫn muốn ngồi vào cái ghế quan ấy. Ngồi vào cái ghế quan ấy, chứ không phải muốn trở thành vị quan ấy. Người Việt cũng rất rạch ròi trong phân biệt đấy chứ ?
Trò chơi Ô ăn quan có tên gọi dân gian như vậy, nhưng qua tên gọi này chúng ta đã thấy nhiều điểm thú vị, Ô thì dễ hiểu, vì đây là đặc trưng của bàn cờ, ăn – rõ ràng là ẩm thực chiếm vai trò rất quan trọng trong ưu tư của người Việt và quan – một mơ ước khác, một mong mỏi khác, một mục tiêu phấn đấu khác của người Việt. Người Việt không mơ về một kho đầy thóc như những tộc người ở châu Phi. Người Việt mơ ước ‘ăn được quan’. Có rất nhiều nghĩa trong mơ ước này. Nhưng tựu chung, người Việt muốn được làm quan. Như thế chẳng phải người Việt đang mơ ước trái với quan điểm sống là rất thực tiễn của người Việt sao ? Không phải! Quan người Việt, vừa rất giàu có lại vừa có quyền hành, có danh vọng. Đó chính là lý do người Việt rất thích làm quan, bằng cách đó người Việt thoả mãn cả quan điểm thực tiễn của mình.
Qua cách chơi, chúng ta biết được phương thức, cách thức, tư duy của người Việt trong lao động. Người Việt thích “một đập ăn quan”. Đó là cách thức lao động để sao, đơn giản nhất mà hiệu quả nhất. Nhưng mặt trái của tư duy này chính là việc “ăn sổi ở thì”. Một nguyên tắc nữa của trò chơi là: Khi nào ô thường hết dân, thì người chơi phải bổ sung thêm dân, thế nhưng khi nào ô quan trống trơn thì khi ấy, toàn quân được thu về. Đây là một nguyên tắc khá hay, tôi không rõ đây chỉ là nguyên tắc của trò chơi hay là có một dụng ý nào đó.
Có một điểm khá thú vị nữa trong trò chơi của người Việt, đó là: số ô và số quân của người Việt rất khác với các nước khác, thường thì khi người Việt du nhập từ tộc người khác, thì hoặc là người Việt giữ nguyên bản, thế nhưng người Việt đã cải biến đi, điểm thú vị là chúng ta thấy con số 5 xuất hiện ở đây. 5 ô và 5 quân trong 1 ô. Đây có phải là sự vô tình hay nó là dụng ý để thể hiện triết lý âm dương ngũ hành hay không ? Tôi ngờ lắm!
Hiện trong dân gian, thường chỉ có 3 loại bàn cờ dành cho 3 nhóm người chơi. Nhóm 2 người, nhóm 3 người và nhóm 4 người. Nhưng đâu là bàn cờ gốc, tức là bàn cờ được sáng tạo ra đầu tiên ? Đây thực sự là một câu hỏi khó, thường thì từ 2 mà sinh 3 rồi sinh 4. Chúng ta cũng không biết bài đồng dao được tạo ra khi nào, nhưng căn cứ vào 4 câu đầu, chúng ta thấy rằng: có con gái (người trẻ) và bà già. Đây rõ ràng là những từ chỉ giới nữ. Nhưng vì trò chơi liên quan tới phụ nữ thì việc dùng những từ hoặc những vật liên quan tới phụ nữa là điều hợp lý. Nhưng sao lại có cửa Phật ở đây ? 2 câu sau không liên quan mấy tới 4 câu đầu. Rất có thể loại hình trò chơi này được sáng tạo ra vào thời điểm phật giáo rất thịnh, đó có thể thời Lý – Trần. Lại có câu truyện lưu truyền về Mạc Hiển Tích đỗ trạng năm 1086, liên quan tới trò chơi Ô ăn quan.
Có một sự trùng hợp khá thú vị giữa bài đồng dao và các bàn cờ, đó là: số lượng các từ trong bài đồng dao là: 4 chữ 1 câu x 6 câu = 24 từ. Trung với số ô của bàn cờ 4 người chơi. Vậy là, 2 câu đồng dao cuối của bài được, sáng tác thêm (vì rất ít liên quan với 4 câu trên) cho đủ 24 chữ tương ứng với 24 ô trong bàn cờ 4 người chơi. Vì thế mà tôi cho rằng: loại bàn cờ ban đầu, loại được chủ ý sáng tạo ra, là loại 4 người chơi. Và mỗi khi người chơi, rải 1 quân vào 1 ô, thì đọc 1 chữ trong bài đồng dao. Bài đồng dao không chỉ là yếu tố văn học, ca ngợi, mô tả về trò chơi mà nó còn là một phép ghi nhớ, khi mà người chơi đọc hết bài, mà số quân rải chưa hết các ô nghĩa là đã rải sai ở một chỗ nào đó. Theo như đó, bài đồng dao giống như là khẩu quyết trong võ học. Thế nhưng người chơi khác, có thể theo dõi và chỉ cho người đang rải biết sao ở chỗ nào cơ mà, nếu vậy thì cần gì khẩu quyết nữa. Cũng có thể giống như gọi cước trong chắn, những người chơi khác được phép bắt lỗi người đang rải, khi rải sai. Như vậy thì rất cần một căn cứ để bắt lỗi chung cho tất cả người chơi và đó có thể là cách nào khác, ngoài bài đồng dao.
Về nguồn gốc của loại trò chơi Ô ăn quan này, hiện tôi không thể xác định được tiền thân của nó, nên cứ tạm xếp nó vào loại hình mancala như hiện nay, nhưng tôi ngờ lắm! Dù có thế nào, thì tôi tin chắc chắn rằng: loại hình trò chơi này cũng phản ánh rõ ràng quan niệm, tư duy, mơ ước của người Việt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét