Họ
là những nhà Khoa học, Nhà văn, nhà Chính trị lỗi lạc trong lịch sử
nhân loại. Dù không có điều kiện để theo học bất cứ chương trình đào tạo
chính quy nào, nhưng bằng niềm đam mê, sự ham học, và ý
chí nỗ lực không mệt mỏi của bản thân, họ đã vươn lên và toả sáng như
những vì tinh tú trên bầu trời lịch sử của nhân loại.
Huyền thoại “Thiên tài không bằng cấp”.
1. Frederick Douglass:
Một trong những tấm gương tự học nổi tiếng trong lịch sử là Frederick Douglass. Ông sinh năm 1818, trong một gia đình nô lệ ở Maryland. Khi còn là một đứa trẻ ông đã tự mày mò học chữ khi gia đình ông đang sống ở Baltimore, kể từ đó ông luôn tự tìm cơ hội trau dồi thêm kiến thức bằng cách đọc thật nhiều. Vào năm 20 tuổi, ông thoát khỏi chế độ nô lệ và định cư ở Massachusetts. Tại đây ông vẫn tiếp tục con đường tự học, tự đào tạo, và sau đó ông trở thành một trong những Nhà văn, một người theo Chủ nghĩa bãi nô, có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất trong lịch sử nước Mỹ.
2. Ando Tada:
Ando Tada là một Kiến trúc sư nổi tiếng người Nhật, dù ông chưa hề qua một trường lớp đào tạo về kiến trúc nào cả. Ông đã từng kiếm sống bằng nghề tài xế, làm một Võ sĩ quyền Anh, và là một thợ mộc trước khi tự học để trở thành một Kiến trúc sư. Ông đã từng một mình thực hiện một chuyến đi từ Đông sang Tây để tự quan sát và học hỏi về nghệ thuật kiến trúc, bằng cách đến thăm những công trình nổi bật trên thế giới. Năm 1969, ông thành lập Hãng kiến trúc Ando Tadao. Công trình nhà lô ở Sumiyoshi (Azuma House), hoàn thành năm 1972, là công trình đầu tiên bộc lộ những đặc điểm kiến trúc của ông. Năm 1995, Ando được nhận giải thưởng Pritzker, và 100.000 đô la Mỹ. Ông đã tặng số tiền đó cho những trẻ em mồ côi trong cuộc động đất Hanshin.
3. Janes Goodall:
Tiến sĩ Janes Goodall, một trong những nhà Hoạt động bảo vệ môi trường nổi tiếng thế giới, đồng thời là Sứ giả Hoà bình của Liên hiệp quốc, là một nhà Nghiên cứu nổi tiếng người Anh trong lĩnh vực bảo vệ động vật hoang dã. Năm 1960, khi ngoài 20 tuổi, bà đã đến Kenya, châu Phi để nghiên cứu về tập tính, và đời sống của loài Tinh tinh. Bà đã có 40 năm sống, và làm việc ở châu Phi, và những nghiên cứu của bà được nhiều người đánh giá là "đã ảnh hưởng đến toàn thế giới nói chung, và thế giới động vật nói riêng". Điều thú vị về bà là phần lớn những công trình nghiên cứu Khoa học quan trọng của bà được thực hiện khi bà chưa qua một trường lớp đào tạo nào cả !. TS Janes Goodall đã được trao tặng nhiều Danh hiệu cao quý, và giải thưởng về bảo tồn động vật hoang dã; Đại sứ Hoà bình của Liên hợp quốc năm 2002; Huy chương Benjamin Franklin vì sự nghiệp Khoa học năm 2003. Bà còn được biết đến với tên gọi “Người phụ nữ của Tinh tinh".
4. Michael Faraday:
Năm 14 tuổi Faraday học việc ở một cửa hiệu sách, và trong suốt 7 năm học việc, ông đã đọc được rất nhiều sách, trong đó có sách của Isaac Watts, quyển mở mang trí tuệ, ông say mê tiến hành các nguyên lý và quan điểm trong quyển sách. Từ đó ông đã biểu lộ niềm đam mê Khoa học, nhất là trong lĩnh vực Điện năng. Mặc dù Faraday được đào tạo ở trường rất ít, và biết ít về toán cao cấp, nhưng ông là một trong những nhà Khoa học có uy tín trong lịch sử Khoa học. Ông là vị Giáo sư Hóa học đầu tiên và lỗi lạc nhất của Viện Hoàng Gia Anh Quốc, và đã giữ vị trí này trong suốt cuộc đời.
5. Hai anh em nhà Wright:
Hai anh em nhà Wright, Orville và Wilbur Wright, là những người đầu tiên thử nghiệm thành công làm cho máy bay bay được. Chuyến bay đấu tiên trong lịch sử nhân loại được thực hiện vào ngày 17/12/1903 tại đồi Kill Devil, Kitty Hawk, Tiểu bang Bắc Carolina, Mỹ. Mỗi anh em thực hiện hai chuyến bay vào ngày hôm đó. Lần bay đầu tiên, do Orville thực hiện kéo dài 12 giây và bay được khoảng 36.5mét (120 ft). Lần bay cuối cùng, do Wilbur thực hiện kéo dài 59 giây và đạt được 296 mét. Chiếc máy bay lúc đó được gọi là Flyer I. Nó có sải cánh khoảng 12 mét, và nặng khoảng hơn 300kg, với động cơ xăng 12 mã lực. Hiện nay nó đang được đặt tại Viện bảo tàng Hàng không và Không gian Quốc gia Hoa Kỳ tại Washington, D.C. Điều đặc biệt là cả hai người đều chưa từng học qua trường đào tạo Kỹ sư, hay nhận được bất cứ bằng cấp chuyên môn nào hết. Thành công của họ đến từ niềm đam mê Khoa học kỹ thuật, cộng với nỗ lực tìm tòi học hỏi không ngừng. Thiên tài của hai anh em nhà Wright đã biến giấc mơ từ ngàn xưa của loài người thành sự thật. 6. Srinivasa Ramanujan: Srinivasa Ramanujan là nhà Toán học huyền thoại người Ấn Độ, nổi tiếng là người dù không được đào tạo bài bản về Toán học lý thuyết, nhưng đã có nhiều đóng góp quan trọng cho nhiều ngành Toán học như: giải tích, lý thuyết số, dãy vô hạn. Ông sinh ra và lớn lên tại Erode, Tamil Nadu, Ấn Độ, và làm quen với Toán học từ năm lên 10 tuổi. Ông bộc lộ năng khiếu đặc biệt về toán khi được tặng một quyển sách Lượng giác cao cấp của S L Loney. Năm 13 tuổi ông đã thành thục quyển sách này, và bắt đầu tìm cách tự phát minh ra các Định lý Toán học. Năm 17 tuổi ông tự nghiên cứu về số Bernoulli, và Hằng số Euler-Mascheroni. Trong quãng đời ngắn ngủi của mình (1887-1920), Ramanujan đã độc lập công bố gần 3.900 kết quả nghiên cứu phần lớn thuộc lĩnh vực Phương trình và Đồng nhất thức, mà ngày nay hầu hết đã được công nhận là chính xác. Tạp chí Ramanujan ra đời để công bố các nghiên cứu Toán học có ảnh hưởng từ các công trình của ông.
7. Mark Twain:
Mark Twain, một tên tuổi lớn trong nền Văn học Mỹ, tên thật là Samuel Langhorne Clemens. Gia cảnh của ông khá chật vật và túng thiếu; năm 12 tuổi, sau khi cha qua đời vì căn bệnh viêm phổi, Mark Twain phải kiếm sống bằng nghề sắp chữ. Có thời gian ông phải bỏ học, theo nghề lái tàu để kiếm sống. Sau đó, ông tiếp tục tự học ở các Thư viện công cộng tại những thành phố mà ông sinh sống, và bắt đầu dấn thân vào công việc của một Nhà báo. Những cuộc hành trình lênh đênh trên miền sông nước trước đó đã trở thành cảm hứng thôi thúc ông viết nên những kiệt tác như: Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer, Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn, Cuộc sống trên sông Mississippi… |
8. Steven Paul Jobs:
Steven Paul Jobs là một Tỷ phú, là ông Trùm kinh doanh và Sáng chế người Mỹ. Ông là đồng Sáng lập viên, Chủ tịch, và cựu Tổng giám đốc Điều hành của Hãng máy tính Apple; ông cũng từng là Tổng giám đốc điều hành của Hãng phim hoạt hình Pixar (Hãng thực hiện nhiều giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất như: Đi tìm Nemo, Gia đình Siêu nhân, Chú chuột Đầu bếp, WALL-E, Up và Câu chuyện đồ chơi 3; sau đó ông trở thành thành viên trong Ban giám đốc của Công ty Walt Disney, sau khi Disney mua lại Pixar. Jobs sinh ra tại thành phố San Francisco, Tiểu bang California, là con nuôi của Paul và Clara Jobs. Ông theo học trường Trung học Cupertino và Homestead tại thành phố Cupertino, Tiểu bang California. Năm 1972, Jobs tốt nghiệp Trung học, rồi ghi tên vào học tại Cao đẳng Reed College ở Portland, Tiểu bang Oregon, nhưng bị đuổi chỉ sau 1 học kỳ. Mặc dù vậy, ông vẫn tiếp tục dự thính các lớp học tại Reed, trong đó có một lớp học viết chữ đẹp. Trong thời gian “học ké” đó, ông phải ngủ dưới sàn nhà của những người bạn, đổi lon nước ngọt để lấy tiền ăn, và nhận các phần ăn miễn phí mỗi tuần tại đền Hare Krishna. Sau này Jobs bày tỏ rằng: "Nếu tôi chưa từng tham dự những khoá học lẻ đó tại trường, MacPro sẽ không bao giờ có có nhiều kiểu chữ hay phông chữ cách nhau tỉ lệ cân xứng như vậy đâu na !".
9. Abraham Lincoln:
Là vị Tổng thống thứ 16 trong lịch sử Hoa Kỳ. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, cha mẹ ông là những nông dân mù chữ. Ông không có điều kiện đi học chính thức. Thời gian theo học thực sự của ông có lẽ chỉ kéo dài 18 tháng do các Giáo viên không chuyên nghiệp dạy. Kiến thức của ông chủ yếu có được từ việc tự học, qua việc đọc mọi cuốn sách có thể mượn được, từ Kinh Thánh, đến các sách Tiếu sử, và sách Văn chương. Ông thông thạo Kinh thánh, các Tác phẩm của William Shakespeare, lịch sử nước Anh, và lịch sử Mỹ, ngoài ra, ông còn học được phong cách trình bày giản dị trước thính giả. Ông dành nhiều thời gian đọc sách đến nỗi những người hàng xóm cho rằng: Ông cố tình làm vậy, để khỏi phải làm những công việc chân tay nặng nhọc. Lincoln nổi tiếng nhất với vai trò gìn giữ Hợp chủng quốc, và chấm dứt chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ với bản Tuyên ngôn Giải phóng, và Sửa đổi thứ mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ về việc bác bỏ chế độ nô lệ.
10. Henry Ford:
Henry Ford ngày nhỏ cũng lười học và say mê sửa chữa đồ cũ, bị hỏng. Máy móc có sức quyến rũ với ông một cách kỳ dị. Năm ông mười hai tuổi, ông đã bắt chước chế tạo được một máy nhỏ chạy bằng hơi nước. Năm 28 tuổi, khi là một công nhân điện, ông quyết tâm theo đuổi chinh phục phát minh máy nổ của người Đức. Thành công đã tới với người kiên trì bền bỉ, 5 năm sau chiếc xe hơi đầu tiên của thế giới chào đời. Tuy nó cao lồng cồng, không mui, không thắng và không chạy dật lùi được, tốc độ tối đa 30 km/giờ. Vài năm sau, ông thành lập Công ty xe hơi Detroit, rồi Công ty xe hơi Cadillac. Tuy không được học hành bài bản, nhưng Henrry có đầu óc lãnh đạo tuyệt vời. Bên cạnh việc những mẫu xe hơi liên tục được cải tiến nâng cao chất lượng và mẫu mã với nhu cầu, và thị hiếu người tiêu dùng, Henry có chiến lược phát triển hoàn hảo. Năm 1906 ông sản xuất được 8.400 chiếc xe; bốn năm sau, con số đó tăng lên 34.000; một năm sau nữa, nó tăng lên 78.000; và tới năm 1927 thì mỗi ngày ông sản xuất được 7.000 chiếc xe, tính ra cứ 7 giây đồng hồ, có một chiếc xe hơi ở trong xưởng ông từ từ chạy ra, để được gửi đi khắp thế giới.
11. Soichiro Honda:
Năm 1980, Soichiro Honda đã được Tạp chí uy tín “People” vinh danh là “Người đặc biệt nhất của năm”, còn thế hệ nay coi ông như một “Huyền thoại Henry Ford của Nhật Bản” !. Từ tuổi thơ khốn khó đến địa vị Chủ tịch tập đoàn Honda hùng mạnh, chuyện nghề nghiệp, chuyện cuộc đời của Soichiro Honda đã trở thành huyền thoại “Thiên tài không bằng cấp” !. Khi mới 2 tuổi, cậu bé Soichiro đã bị thu hút, và thích mày mò chiếc cối xay gió. Lớn thêm chút nữa, cậu tự “chế tạo” chiếc máy bay đồ chơi bằng tre có gắn “động cơ” làm bằng dây cao su. Cậu suốt ngày lấm lem mặt mũi do hay giúp đỡ cha mình trong xưởng, đến mức bạn bè đặt cho cậu biệt danh “Chú chồn nhọ mũi” !. “Chú chồn nhọ mũi” này không ham thích học hành, chỉ quan tâm đến những môn kỹ thuật, và bảng điểm của cậu dở tệ. Năm 15 tuổi, Soichiro Honda bỏ học để lên Tokyo học nghề tại xưởng Cơ khí xe hơi Shokai, thắp lửa niềm đam mê cùng tốc độ mãi cho tới sau này. Bốn năm sau, Honda đã mở Hãng sản xuất của riêng mình. Chỉ sau một thời gian ngắn, xưởng sản xuất “Doanh nghiệp một thành viên” cho ra đời xe đạp gắn động cơ. Ngay lập tức, Sản phẩm len lỏi khắp các ngõ ngách ở Nhật Bản. Từ đây, Honda Technical Research Institute của ông đã thành công, và không ngừng phát triển. Đến năm 1948, Công ty Honda Motor Co. Ltd được thành lập, và trở thành một tập đoàn số 1 thế giới về sản xuất xe máy, top 10 sản xuất xe hơi.
12. Bill Gates:
Gates nhập học tại Harvard vào mùa Thu năm 1973. Hai năm sau, ông ta đã bỏ học để thành lập Công ty Microsoft, với người bạn Paul Allen. Sau khi thành danh, Bill Gates mới quay trở lại trường để tiếp tục sự nghiệp học hành. Và trong năm 2007, cuối cùng ông cũng nhận được học vị Tiến sĩ Danh dự từ trường cũ của mình... Khi được mời phát biểu tại buổi lễ phát bằng Tốt nghiệp cho Sinh viên Havard, Bill Gates nói: "Tôi là một ví dụ xấu !. Đó là lý do tại sao tôi được mời tới đây để nói chuyện Tốt nghiệp của bạn.... Nếu gặp tôi trước khi nhập học, có thể số lượng Sinh viên chuẩn bị Tốt nghiệp có mặt ở đây sẽ ít hơn nhiều !”.
13. Frank Lloyd Wright:
Theo Kiến trúc sư nổi tiếng nhất của Mỹ, Wright đã dành nhiều thời gian hơn vào việc thiết kế các trường Cao đẳng, Đại học, hơn là tham dự các lớp học trong đó. Sau khi dành một năm học tại Đại học Wisconsin-Madison, ông bỏ học để đến Chicago và trở thành một người học việc của Louis Sullivan, “Cha đẻ của chủ nghĩa hiện đại” !. Trong sự nghiệp thiết kế và sáng tạo không ngừng nghỉ của mình, Wright đã tạo ra hơn 500 công trình kiến trúc vĩ đại, nổi tiếng nhất trong số đó là Fallingwater, và New York City của Solomon R. Guggenheim Museum.
14. Buckminster Fuller:
Bị trục xuất khỏi Harvard hai lần, Kiến trúc sư đồng thời là nhà Phát minh vĩ đại người Mỹ Buckminster Fuller đã phải trải qua rất nhiều thăng trầm, biến cố. Một số ý tưởng kinh doanh ban đầu thất bại, và trải qua nỗi đau đớn của việc mất đi cô con gái đầu lòng, ông tưởng chừng như không thể gượng dậy nổi !. Tuy nhiên, ở tuổi 32, cuộc sống của Fuller bắt đầu thay đổi. Những ý tưởng sáng tạo của ông như các thiết bị ghép năng động áp dụng cho nhà ở, và cả xe hơi nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ công chúng. Đặc biệt là kết cấu xây vòm hình tượng của ông đã đưa tên tuổi của ông lên tầm cao mới, và được quốc tế công nhận.
15. Mark Zuckerberg:
Bỏ học ở Harvard, Mark Zuckerberg phát triển Facebook trong ký túc xá trường mình. Bây giờ Facebook đã trở thành một trong những trang web phổ biến nhất trên thế giới mạng xã hội. Theo sự bùng phát của Facebook, Zuckerberg đã bỏ học để di chuyển địa điểm Công ty của anh đến California. Mark Zuckerberg đã chứng minh rằng: Quyết định của anh là sáng suốt. Theo Forbes, Zuckerberg là Tỷ phú trẻ nhất thế giới, với trị giá tài sản năm 2010 là 4 tỷ USD. Tuy nhiên, mới đây Ông chủ Facebook nhận Bằng tốt nghiệp Harvard sau 12 năm bỏ học. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét