Lê Anh Minh
Ngày 23 tháng 11 năm 1863 (tức năm
Đồng Trị thứ hai, đời Thanh) tại ngôi làng Tinh Đẩu, huyện Tương Đàm,
tỉnh Hồ Nam Trung Quốc, một bé trai đã chào đời trong một gia đình nông
dân nghèo. Gia đình này bấy giờ đã có bốn người, gia chủ là ông Tề Quán
Chánh (25 tuổi) và bà Chu (19 tuổi) cùng với song thân của gia chủ (56
tuổi và 51 tuổi.)Người thành viên thứ 5 bé nhỏ trong gia đình này là niềm hạnh phúc biết bao cho gia đình gồm bố mẹ và ông bà nội. Tiếc thay, cậu bé thật yếu ớt, bệnh hoạn, thiếu ăn, tưởng chừng không sống quá 4 tuổi. Nhưng rồi cậu cũng giành được sinh mệnh của mình trên tay tử thần. Đó là cuộc tranh đấu thứ nhất trong đời, mở đầu cho biết bao cuộc tranh đấu khác sau này, cuộc đấu tranh cho đời sống tinh thần đầy ý nghĩa mãi đến phút lìa trần, 16-9-1957.
Tề Bạch Thạch 齊白石 tên thực là Tề Thuần Chi, tự là Vị Thanh, biệt hiệu Lan Đình. Năm 27 tuổi học vẽ, được thầy là Hồ Thâm Viên đặt tên cho là Hoàng (nghĩa là ngọc hình bán nguyệt), tự là Tần Sinh, hiệu là Bạch Thạch.
Ông còn vô số tên hiệu khác, chẳng kém gì hai đại danh họa Nghê Vân Lâm (đời Nguyên) và Thạch Đào Hòa Thượng (đầu đời Thanh.) Đại khái có thể kể như: Tề Đại, A Chi, A Trường, Mộc Nhân, Lão Mộc, Lão Mộc Nhất, Mộc Cư Sĩ, Ký Viên, Ký Bình, Lão Bình, Bình Ông, Ký Bình Đường Lão Nhân, Bạch Thạch Sơn Ông, Bạch Thạch Lão Nhân, Tá Sơn Ngâm Quán Chủ Giả, Tinh Đường Lão Ốc Hậu Nhân, Hạnh Tử Ô Lão Dân, Tam Bách Thạch Ấn Phú Ông…
Tề Bạch Thạch
đã trải một tuổi thơ gian khổ như biết bao cậu bé khác chốn quê nghèo.
Năm lên 8, cậu theo học ông ngoại, một ông đồ nghèo với dăm quyển Tam tự
kinh, Bách gia tính, Thiên gia thi và Luận ngữ. Cậu nổi tiếng ngay,
nhưng chẳng phải vì tài văn chương thi phú, mà vì tài năng hội họa. Năng
khiếu hội họa của cậu đã bộc phát. Những hình ảnh, những đường nét ngẫu
hứng vẽ ngư ông, điểu thú, thảo trùng… tuy còn non nớt nhưng cho thấy
nhiều triển vọng sau này.
Nhưng cái thời
gian hồn nhiên với sách vở và vẽ vời như thế chẳng được lâu là bao. Mùa
thu 1870, cảnh nhà sa sút, cậu bèn bỏ học, ở nhà phụ cha mẹ những việc
như gánh nước, trồng rau, bổ củi, chăn trâu… Một năm học nơi ông ngoại,
tuy ngắn ngủi, nhưng chính là những ngày tháng hạnh phúc nhất trong tuổi
thơ của cậu. Cậu bé vừa lên 9 thuở ấy đã sớm hiểu thế nào là kiếp
nghèo, là số phận con nhà nghèo. Niềm ao ước đơn sơ của cậu là mỗi ngày
được xong việc sớm để xem lại những trang sách cũ, để hồi tưởng lại
những lúc vui đùa cùng với chúng bạn và để rồi mơ ước, ước mơ…
Theo cổ tục
tảo hôn, cậu bé 12 tuổi này phải sánh duyên cùng cô bé Trần Xuân Quân,
lớn hơn cậu một tuổi. Năm ấy cũng là năm ông nội cậu tạ thế. Gia cảnh
càng ngày càng suy sụp, năm 13 tuổi cậu bắt đầu chân lấm tay bùn với
việc đồng áng. Nhưng rồi vì thể lực yếu ớt, sau hai năm, cậu xoay qua
học nghề thợ mộc nơi ông Tề Tiên Hựu, em ruột của ông nội cậu. Rồi công
việc vất vả lao nhọc của nghề mộc cậu cũng không kham nổi, nên đeo đuổi
được một năm cậu xoay qua học nghề chạm trổ gỗ nơi ông Chu Tử Mỹ. Sau 3
năm, thành nghề, cậu đủ khả năng gánh vác kinh tế gia đình. Năm ấy cậu
19 tuổi và bắt đầu làm lễ động phòng với vợ, cô Trần Xuân Quân, lễ này
gọi là «Lễ Viên Phòng».
Chàng thợ chạm
gỗ họ Tề dần dần được làng trên xóm dưới biết danh, họ gọi chàng là
«Chi mộc tượng» (Thợ mộc tên Chi). Tề Bạch Thạch thể chất nhu nhược,
nhưng thông minh đĩnh ngộ. Ông không mô phỏng những mẫu mã có sẵn. Những
hình chạm gỗ kỳ lân, long, phụng, trạng nguyên vinh qui, hoa lá… đã
được ông thông minh khéo léo cải biên, thay đổi, thêm đẹp mắt, khiến
khách hàng phải trầm trồ khen ngợi.
Một hôm, tại
nhà một thân chủ nọ, ông tình cờ thấy quyển Giới Tử Viên Họa Phổ – một
bí kíp của người học vẽ. Ông bàng hoàng sửng sốt rụng rời, và cuốn sách
danh tiếng này đã thay đổi cuộc đời của chàng thanh niên họ Tề từ đó.
Ông mượn về và say sưa nghiền ngẫm. Phần họa luận và họa pháp cùng với
những hình ảnh trong họa phổ đã khai tâm cho ông những qui tắc hội họa.
Từ đó, ông áp dụng chúng vào nghề chạm gỗ, thế là tài nghệ đã tinh xảo
lại càng tinh xảo hơn. Năm đó ông 20 tuổi. Cuộc sống gia đình bắt đầu
khá giả hơn, gia đình đông vui hơn. Bấy giờ toàn gia đình có 14 người,
riêng anh em ông có cả thảy 9 người: 6 trai, 3 gái. Danh tiếng của «Thợ
mộc Chi» đã lẫy lừng, vượt qua mấy nương dâu, ruộng lúa, vươn qua mấy
lũy tre xanh lan đến những thôn làng xa xôi. Có người tin cậy đến nỗi
đặt ông vẽ tranh. Ông không dám nhận lời, nhưng điều này gợi ý cho ông
bước vào lĩnh vực hội họa.
Ông bắt đầu
học vẽ tranh chân dung và bồi tranh nơi ông Tiêu Hương Cai. Năm ông 27
tuổi, một người đồng hương của ông tên là Hồ Thâm Viên – một họa sĩ
chuyên về công bút vẽ hoa điểu thảo trùng – đã nhận ông làm đệ tử, đồng
thời khuyên ông nên vẽ và bán tranh mưu sinh. Ông Hồ Thâm Viên mời thêm
danh sĩ Trần Thiếu Phồn về dạy cho Tề văn chương thi phú. Ông Hồ Thâm
Viên đặt tên cho Tề là Hoàng, tự là Tần Sinh. Vì gia đình ông ở gần phố
Bạch Thạch nên ông lấy tên là Tề Bạch Thạch và Bạch Thạch Sơn Nhân… Dưới
sự dạy dỗ tận tụy của hai lương sư Hồ và Trần – một hội họa, một thi
phú – Tề Bạch Thạch tiến bộ rất nhanh. Rồi ông thầy họ Hồ lại nhiệt
thành giới thiệu đệ tử ruột của mình theo học vẽ sơn thủy nơi một người
bạn của thầy nữa. Thế là sau một thời gian khổ luyện, Tề Bạch Thạch bắt
đầu sống bằng nghề vẽ và bán tranh, năm đó ông 30 tuổi. Ngoài các tranh
thờ, ông còn vẽ phong cảnh (tranh sơn thủy), hoa điểu, nhân vật… ông vẽ
thiếu nữ rất đẹp cho nên thiếu nữ trong tranh được người đời mệnh danh
là «Tề Mỹ Nhân» (Người đẹp họ Tề.) Ngoài việc vẽ tranh, ông còn ngâm thơ
vịnh phú với mặc khách tao nhân. Ông cùng 6 người bạn thành lập Long
Sơn Thi Xã, và xưng nhóm là «Long Sơn Thất Tử» (Bảy Thi Nhân của Long
Sơn Thi Xã). Năm 33 tuổi ông lập thêm nhóm La Sơn Thi Xã, tạo thêm dịp
ngâm vịnh với bạn bè. Đến năm 34 tuổi, ông bắt đầu học thư pháp (viết
chữ đẹp), đặc biệt chuyên tập luyện kiểu chữ Lệ và chữ Triện, đồng thời
quyết tâm học nghề khắc ấn triện.
Tên tuổi Tề
Bạch Thạch đã vượt qua các thôn làng và lan đến huyện Tương Đàm. Một
người trên huyện mời ông đến nhà để vẽ tranh. Thế là năm 35 tuổi, ông
mới có dịp đi xa, từ Tương Đàm, rồi tiếp đó là Trường Sa, Nam Nhạc… Nhờ
du lịch nhiều, ông kết giao được nhiều danh sĩ, nhiều bậc quyền thế như
Vương Tương Y, Đàm Diên Hạp, anh em Trạch Khải và Vương Tương Y. Họ cực
kỳ ái mộ Tề, hết lòng ca ngợi Tề bất cứ đâu có dịp, thành thử danh tiếng
ông càng lan xa và địa vị xã hội càng được nâng cao thêm.
Năm 43 tuổi,
ông nhận ra rằng không thể nào cứ sao chép cổ nhân mãi, từ đường nét đến
ý tứ. Thế là ông bỏ lối công bút (tức là lối vẽ công phu tỉ mỉ) mà theo
lối ý bút (lối vẽ phóng khoáng, tả ý) đồng thời quyết định phải du lãm
thật nhiều để tìm ý tứ mà sáng tác cũng như để làm giàu kinh nghiệm
sống. Đúng lúc đó, một vị quan họ là Hạ mời ông đến Tây An làm gia sư.
Thế là ông rời Hồ Nam đi Thiểm Tây. Tại Tây An, ông kết giao với đại thi
nhân Phàn Phàn Sơn được chừng 3 tháng, vì quan họ Hạ phải thuyên chuyển
về Bắc Kinh, Tề Bạch Thạch cũng đi theo, tiếp tục làm gia sư cho họ Hạ.
Trên đường về
Kinh đô, phong cảnh núi non sông nước hùng vĩ và hữu tình đã khơi nguồn
sáng tạo đầy hứng khởi say mê cho ông. Tại Bắc Kinh, vị quan họ Hạ và
đại nho Phàn Phàn Sơn hết lòng tiến cử ông vào làm họa sư của triều
đình. Nhưng ông từ chối, cam chịu đạm bạc, không thích quan tước, bèn
quay về cố hương là Hồ Nam.
Bước phiêu
lãng của Tề Bạch Thạch từng qua Hoa Sơn, Tây Nhạc, Trung Sơn, Tung Sơn,
Lư Sơn, Nam Xương, Quảng Đông, Quảng Tây, Quảng Châu, Quế Lâm, Nam Kinh,
Tô Châu, Giang Tây, Thiểm Tây, Giang Tô, Chiết Giang, Thượng Hải, Hương
Cảng… Năm 1907, ông sang Việt Nam, và ghi lại sông núi hoa gấm của nước
Nam qua tác phẩm Lục Thiên Quá Khách. Năm 45-46 tuổi ông sống tại Quảng
Châu, mưu sinh bằng nghề khắc triện. Tại đây ông hân hạnh kết giao với
các danh họa gia Bát Đại Sơn Nhân, Từ Thanh Đằng, Kim Đông Tâm … Sau 5
năm giang hồ phiêu lãng, từ năm 43 đến 48 tuổi, ông về quê cũ, chuyên
rèn luyện cổ văn, thi từ, đồng thời soạn lại những bút ký và họa cảo qua các cuộc viễn du, viết thành tác phẩm Tá Sơn Đồ Quyển gồm 52 bức họa và 24 bức chuyên vẽ đá.
Sau cuộc cách
mạng Tân Hợi (1911) ông cư gia bất xuất, tự tay trồng cây, hoa kiểng, và
nuôi cá quanh nhà. Tháng 5 năm 1914, ông mang một cái tang đau đớn
nhất: vị ân sư của ông là họa gia Hồ Thâm Viên lìa trần. Tình nghĩa sư
đệ sâu dày như non cao bể thẳm, Tề Bạch Thạch nuốt lệ ngậm ngùi. Trong
giây phút sinh ly tử biệt não nề, ông chọn 20 họa phẩm đắc ý của ông –
cũng là những tác phẩm mà thầy từng khen ngợi – đem đốt trước linh sàng,
mượn làn hương bay khói tỏa minh chứng lòng tri ân thành kính bậc tôn
sư đã nhiệt tâm giáo huấn tài bồi.
Năm 1917, tức
năm Dân Quốc thứ 6, giặc giã loạn lạc nổi lên. Ông đơn thân đi Bắc Kinh.
Nhân dịp này ông kết giao với những danh họa gia như Trần Sư Tăng, Trần
Bán Đinh, Vương Mộng Bạch, Dao Mang Phu. Lúc trở về quê, đau lòng trước
cảnh quê hương điêu linh, cửa nhà bị thổ phỉ cướp sạch, ông di tản gia
đình về chân núi Từ Kinh Sơn. Bấy giờ cha ông 81 tuổi, mẹ ông 75 tuổi.
Nhưng ông chẳng ở chung với gia đình lâu, được vài tháng lại lên đường
về Bắc Kinh. Năm sau vợ ông cũng theo về Bắc Kinh và chủ trương lấy vợ
lẽ cho ông. Cô vợ lẽ mới 18 tuổi, tên Hồ Bảo Châu, người huyện Phong Đô
tỉnh Tứ Xuyên, lúc đó Tề Bạch Thạch đã 57 tuổi.
Năm 58 tuổi,
ông kết giao với Từ Bi Hồng, Lâm Cầm Nam, Mai Lan Phương… Nhân dịp này,
vâng lời khuyên của Trần Sư Tăng, ông cải biến họa pháp và tự sáng chế
lối vẽ «Hồng Hoa Mặc Diệp» (Hoa đỏ, lá đen) rất độc đáo.
Hai năm sau,
1922, ông lại vâng lời Trần Sư Tăng, cùng với họ Trần đi Paris tham gia
cuộc triển lãm tranh. Trở về cố quốc, ông viết hồi ký «Tam Bách Thạch Ấn
Tề Ký Sự» (Ký sự của gã họ Tề, biệt hiệu Tam Bách Thạch Ấn.) Cũng chính
năm đó người bạn tri kỷ của ông là Trần Sư Tăng qua đời. Quả là một tổn
thất lớn lao. Trong đời ông, chỉ có Từ Bi Hồng và Trần Sư Tăng là kẻ
tri kỷ, thân thiết tâm giao. Đó là hai cố vấn tối cao trong đời ông, nay
mất một làm sao không đớn đau đứt ruột.
Hai năm sau,
1924, ông bị bệnh thập tử nhất sinh, mê man 7 ngày 7 đêm. Nhưng một lần
nữa, ông lại giành được sinh mệnh của mình trên tay tử thần. Rồi năm
sau, ông trở về quê cũ viếng thăm cha mẹ để rồi chẳng bao lâu chứng kiến
đấng sinh thành ra đi trong cùng một năm (1926): mẹ chết hồi tháng 3,
thọ 82 tuổi, đến tháng 7 thì cha cũng ra đi, thọ 88 tuổi.
Đến năm 1927
thì danh tiếng Tề Bạch Thạch lẫy lừng chốn đế đô. Ông được mời giảng dạy
tại Quốc Lập Bắc Kinh Nghệ Thuật Chuyên Môn Học Hiệu (năm 1928, trường
đổi tên là Mỹ Thuật Học Viện.) Nhân dịp này ông xuất bản «Tá Sơn Ngâm
Quán Thi Cảo Ấn Phổ». Tề Bạch Thạch nổi tiếng không kém đại danh họa
tiền bối là Ngô Xương Thạc, bấy giờ người đời xưng tụng câu «Nam Ngô Bắc
Tề» (phương Nam có Ngô Xương Thạc, phương Bắc có Tề Bạch Thạch) đủ thấy
thanh thế của ông uy chấn giang hồ thế nào. Nhưng họ Ngô tạ thế trong
năm 1927 này, thọ 84 tuổi. Thành thử chỉ còn «Bắc Tề», bấy giờ 65 tuổi,
lừng lẫy một phương.
Nhưng đó chỉ
là cái thế giới hội họa, nhìn ra xã hội, Trung Quốc đang phân loạn điêu
linh do ảnh hưởng của Đại Chiến Thế Giới thứ nhất (1914-1918), thực dân
Tây phương nhiễu nhương xâm lấn, chiến tranh Quốc-Cộng, Nhật Bản xâm
lược… Nhân dân lầm than trước cảnh thù trong giặc ngoài, bọn Hán gian
đầy rẫy, chánh ngụy bất phân. Thành thử quá ngao ngán chán chường, ông
đóng cửa tạ khách, lúc đó 70 tuổi (1932).
Năm 1933, Hoa
Bắc rơi vào tay bọn quân phiệt Nhật, nhân dân đã lầm than lại thêm lầm
than, đã thống khổ lại càng thống khổ. Tề Bạch Thạch bỏ dạy học hẳn, bế
môn bất xuất, chỉ ngâm thơ vẽ tranh, khắc ấn triện, cự tuyệt bán tranh.
Để tránh sự dòm ngó theo dõi của giặc Nhật Bản và bọn Hán gian, ông treo
trước cửa nhà mấy chữ «Bạch Thạch Lão Nhân tâm bệnh phục phát, đình chỉ
kiến khách» (Tâm bệnh của Tề Bạch Thạch tái phát, miễn tiếp khách) và
bốn chữ «Đình chỉ mại họa» (Ngưng bán tranh). Trong lúc đất nước điêu
linh, nhân tâm điên đảo, và tự lượng sức già nhu nhược, ông đành chọn
thái độ bất hợp tác, vừa giữ được tiết tháo kẻ sĩ phu vừa ngầm tỏ tinh
thần phản kháng. Nhưng bọn sĩ quan Nhật và bọn tay sai biết danh tiếng
ông, vẫn ghé luôn, vừa mua tranh vừa mua chuộc. Ông thẳng thắn từ khước.
Năm ấy ông 75 tuổi (1937). Ở đây tưởng cũng nên nhắc một chi tiết mà
các nhà nghiên cứu mỹ thuật Trung Quốc thường sơ ý, chẳng hạn báo ảnh
Liên Xô số 9 năm 1984, bài của tác giả L. Smôticôva viết rằng: Tề Bạch
Thạch (1860-1957). Thật sự, ông sinh năm 1863, đến năm 1937 (Dân Quốc
thứ 26) do tin tưởng số mệnh, ông tăng hai tuổi, tức là 77 tuổi. Tính
đến năm ông mất 1957, hưởng thọ 97 tuổi (thực tế là 95 tuổi). Vì không
rõ chi tiết này nên tác giả L. Smôticôva đã tính ngược lên và viết năm
sinh của ông là 1860.
Ngày 14-8 năm
Ất Dậu (1945) quân Nhật đại bại, Tề Bạch Thạch sung sướng đến nỗi không
ngủ được, ông liền mở cửa bán tranh và khắc ấn triện trở lại. Năm ông 86
tuổi (1946), ông đi Nam Kinh tổ chức triển lãm. Đợt triển lãm này do
Trung Hoa Toàn Quốc Mỹ Thuật Hội đỡ đầu. Toàn bộ tranh của ông đem triển
lãm được chiếu cố nhiệt liệt và bán sạch. Tiền bạc và danh vọng ở cái
tuổi gần đất xa trời này có làm ông vui chăng? Chúng ta không rõ. Có
điều, cậu bé èo uột thuở nào chung cuộc lại trường thọ và biết bao lần
bi thương tống biệt những người thân thiết nhất của mình, ông bà, bố mẹ,
con cái, thê thiếp và cả bằng hữu văn thơ, những trần ai tri kỷ nữa.
Năm lên 12,
ông nội mất. Năm ông 39 tuổi, bà nội qua đời. Năm ông 51 tuổi, cậu con
trai thứ mới 20 tuổi đã yểu mệnh. Tiếp ngay năm sau, thêm cái tang ân sư
Hồ Thâm Viên. Năm ông 54 tuổi, lại vĩnh biệt bạn tri kỷ Vương Tương Y.
Rồi năm ông 61 tuổi, thêm một bạn trần ai tri kỷ nữa ra đi: Họa gia Trần
Sư Tăng, người mà Tề Bạch Thạch hết lòng yêu mến thâm giao cũng như Từ
Bi Hồng. Nỗi đau chưa nguôi thì 3 năm sau ông chịu luôn hai cái tang của
mẹ rồi đến cha. Hai năm sau, người em trai thứ năm cũng theo bước phụ
mẫu mà đi. Hai năm nữa, người em trai thứ hai lại ra đi nốt, lúc bấy giờ
ông 68 tuổi. Và đúng một năm sau, thi hữu rất mực thân thiết là Phàn
Phàn Sơn qua đời. Năm ông 77 tuổi, gánh luôn cái tang của thi nhân Trần
Tam Vị, cha của người bạn thân là Trần Sư Tăng, rồi năm sau ông lại đau
đớn tiễn biệt đứa con trai thứ sáu đoản mệnh mới có 5 tuổi. Năm ông 80
tuổi, con mất được hai năm, nỗi bi thống chưa tan thì phải khóc vợ là
Xuân Quân qua đời. Rồi đúng 3 năm sau, kế thất là Hồ Bảo Châu cũng lìa
trần. Năm ông 86 tuổi, cô con gái mới 19 tuổi đã vội theo mẹ về nơi miên
viễn.
Bi thống chập
chùng bi thống, thương đau nối tiếp thương đau, và ngày 16-9-1957, Tề
Bạch Thạch đã ra đi mãi mãi, để lại nỗi thương tiếc ngậm ngùi trong lòng
thân bằng quyến thuộc cũng như người ái mộ bốn phương.
Tề Bạch Thạch
là một tấm gương vươn lên từ nghịch cảnh. Ông có một tuổi thơ vất vả
gian lao chốn điền dã nghèo nàn. Thời gian học tập của cậu bé họ Tề quá
ngắn ngủi, độ một năm. Dù là học nơi ông ngoại, cậu cũng không có cơ hội
đeo đuổi sách đèn, bởi lẽ cảnh nhà suy sụp đã đẩy cậu đến chỗ lam lũ
ruộng đồng, gánh nước, bổ củi, chăn trâu… Nhưng tâm hồn Tề Bạch Thạch đã
phong phú thêm, ông đã biết thưởng thức cái đẹp lúc bình minh hay bóng
xế chiều hôm, cảnh vật thiên nhiên bốn mùa thay đổi, cảnh nước chảy hoa
trôi, cây cỏ thảo trùng. Chính sự tiếp cận với thiên nhiên trong cảnh
hòa âm điền dã đã giúp ông sớm có nhận thức khách quan về cuộc sống và
thẩm mỹ trước khi bắt đầu vào ngành hội họa. Và chính cái cảnh ngộ nghèo
khó đã giúp ông thông cảm sâu sắc với đại chúng bình dân. Thành thử đề
tài trong tranh ông bao giờ cũng gắn liền với thiên nhiên, với cuộc sống
của dân quê, và toát ra vẻ dung dị mộc mạc rất gần gũi đời thường.
Chính họa pháp độc đáo của Tề Bạch Thạch làm giới phê bình mỹ thuật ở Tây phương phải kinh ngạc. L. Smôticôva, nhà phê bình mỹ thuật của Liên Xô, nơi Báo Ảnh Liên Xô (số 9-1984) nhận định về Tề Bạch Thạch như sau: «Sống giữa hai thế kỷ, khi nhiều họa sĩ Trung Quốc quay sang nghệ thuật Châu Âu, Tề Bạch Thạch đã chọn những người thợ dân gian lão luyện làm thầy. Và kết quả thật ngược đời: Không liên quan tới một khuynh hướng hội họa mới mẻ nào, thế nhưng ông đã trở thành họa sĩ hiện đại một cách lạ kỳ, tên tuổi của ông đã trở thành vốn quý của nền văn hóa thế giới.» Một nhà phê bình khác thì bảo: «Khi người ta còn yêu hòa bình, mặt trời, và vẻ đẹp của thiên nhiên thì nghệ thuật của Tề Bạch Thạch còn cần cho con người.» Xin mượn lời trên để kết thúc bài viết này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét