Nếu
quý vị mở cuốn sách giáo khoa dạy văn chương “Glencoe Literature” do
nhà xuất bản McGraw Hill ấn hành, quý vị sẽ thấy một bài thơ của một thi
sĩ Việt Nam dịch sang tiếng
Anh đi song song với bài diễn văn nổi tiếng của Tổng Thống Abraham
Lincoln trong thời Nội chiến Mỹ, tại bãi chiến trường Gettysburg. Đó là
bài thơ của Trần Mộng Tú, The Gift in Wartime, nhan đề tiếng Việt là
“Quà Tặng Trong Chiến Tranh.”
Hai tác phẩm trên được đem ra để dạy học
sinh môn văn chương Hoa Kỳ. Trong phần thứ ba của cuốn sách giáo khoa,
viết về văn chương thời kỳ nội chiến Nam Bắc ở Mỹ và sau cuộc
nội chiến, các nhà soạn sách giáo khoa của công ty Glencoe - McGraw
Hill, rất thông dụng trong các trường trung học ở Mỹ đã có sáng kiến đem
bài thơ Trần Mộng Tú, qua bản dịch Anh ngữ cho học sinh nghiên cứu song
song với bài diễn văn trầm hùng của Abraham
Lincoln, so sánh cách dùng chữ, cách chọn hình ảnh, những ý tưởng trong
mỗi bài của hai tác giả. Đây là một kinh nghiệm văn chương quý báu mà
các học sinh Mỹ được hưởng khi tiếp xúc với một thi sĩ ngoại quốc để
thấy hậu quả của chiến tranh trên tâm hồn một
phụ nữ Việt Nam cũng mang những tính chất nhân bản và sâu sắc không
khác gì vị Tổng Thống mà tất cả mọi người Mỹ đều quen thuộc. Có lẽ sau
này học sinh Việt Nam khi học về văn chương thời nội chiến Nam Bắc ở thế
kỷ 20 cũng sẽ có cơ hội nghiên cứu bài thơ của
Trần Mộng Tú
Bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh” được viết ở Việt Nam, khi thi sĩ còn rất trẻ, từ những xúc động trước cái chết của một chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa, người yêu đầu của cô, sau đó đã được đăng trên các tạp chí khắp nơi ở hải ngoại.
Bài diễn văn do Tổng Thống Lincoln đọc ngày 19 tháng 11 năm 1863 trong dịp khánh thành một nghĩa trang cho các tử sĩ tại chiến trường Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania. Trước ông, một chính trị gia và nhà hùng biện nổi tiếng đã nói suốt 2 giờ; đến lượt Lincoln ông chỉ nói trong vòng 2 phút. Sau buổi lễ, các nhà báo tường thuật không ai nhắc đến những lời Lincoln nói, nhưng dần dần dân tộc Mỹ đã nhận ra đó là một tác phẩm văn chương bất hủ, xuất phát từ tấm lòng của một nhà lãnh đạo vốn rất ghét chiến tranh nhưng phải dẫn đầu nước Mỹ trong một cuộc chiến bất đắc dĩ và đã thành công trong việc bảo vệ một quốc gia thống nhất với những lý tưởng tự do, bình đẳng. Câu nói được cả thế giới ngày nay nhắc lại nhiều lần kết thúc bài diễn văn ca ngợi các chiến sĩ đã hy sinh để một “chính phủ của dân, do dân, và vì dân sẽ không bị hủy diệt trên trái đất.”
Bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh” được viết ở Việt Nam, khi thi sĩ còn rất trẻ, từ những xúc động trước cái chết của một chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa, người yêu đầu của cô, sau đó đã được đăng trên các tạp chí khắp nơi ở hải ngoại.
Bài diễn văn do Tổng Thống Lincoln đọc ngày 19 tháng 11 năm 1863 trong dịp khánh thành một nghĩa trang cho các tử sĩ tại chiến trường Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania. Trước ông, một chính trị gia và nhà hùng biện nổi tiếng đã nói suốt 2 giờ; đến lượt Lincoln ông chỉ nói trong vòng 2 phút. Sau buổi lễ, các nhà báo tường thuật không ai nhắc đến những lời Lincoln nói, nhưng dần dần dân tộc Mỹ đã nhận ra đó là một tác phẩm văn chương bất hủ, xuất phát từ tấm lòng của một nhà lãnh đạo vốn rất ghét chiến tranh nhưng phải dẫn đầu nước Mỹ trong một cuộc chiến bất đắc dĩ và đã thành công trong việc bảo vệ một quốc gia thống nhất với những lý tưởng tự do, bình đẳng. Câu nói được cả thế giới ngày nay nhắc lại nhiều lần kết thúc bài diễn văn ca ngợi các chiến sĩ đã hy sinh để một “chính phủ của dân, do dân, và vì dân sẽ không bị hủy diệt trên trái đất.”
Cuốn sách giáo khoa tiếp theo đã giới
thiệu thi sĩ Trần Mộng Tú, sinh ở tỉnh Hà Đông,Việt Nam, người phụ nữ có
kinh nghiệm chính mình sống với những hậu quả của cuộc chiến tranh
trong đó hai triệu người Việt Nam thiệt mạng cũng như 57,000 người Mỹ.
Sau khi đọc bài thơ Trần Mộng Tú, học sinh được hướng dẫn với những câu
hỏi để khám phá những cảm xúc mà tác giả gợi cho người đọc cũng như tìm
hiểu nội dung bài thơ. Cuốn sách giáo khoa
cũng gợi ý cho học sinh tìm hiểu về kỹ thuật, học sinh tự hỏi tại sao
thi sĩ đã dùng các điệp ngữ và nhắc lại các hình ảnh để gây ấn tượng nợi
người đọc. Sau đó, các học sinh được mời so sánh hai áng văn chương
cùng viết trong thời nội chiến ở hai quốc gia,
hai thế kỷ khác nhau. Abraham Lincoln đọc bài diễn văn của ông trước
một đám đông, và ông nhắm vào công chúng. Còn Trần Mộng Tú viết một
mình, cho mình. Nhưng học sinh có thể tìm thấy những mục đích và cảm xúc
giống nhau trong hai tác phẩm ngắn này. Học sinh
cũng được dịp tìm hiểu khai phá sự khác biệt giữa hai nền văn hóa của
hai tác giả, và thử hỏi một người Mỹ thời nay nếu viết về chiến tranh
thì sẽ viết giống tác phẩm nào.
Để quý vị thông cảm với tác giả Trần
Mộng Tú, chúng tôi xin đăng lại nguyên văn 2 bài thơ của thi sĩ bằng
tiếng Việt dưới đây. Bài Quà Tặng Trong Chiến Tranh (Trong American
Literature textbook) và bài Giấc Mơ Hòa Bình (Trong Vision of War,
Dream of Peace)
Quà Tặng Trong Chiến Tranh
Em tặng anh hoa hồng
Chôn trong lòng huyệt mới
Em tặng anh áo cưới
Phủ trên nấm mồ xanh
Chôn trong lòng huyệt mới
Em tặng anh áo cưới
Phủ trên nấm mồ xanh
Anh tặng em bội tinh
Kèm với ngôi sao bạc
Chiếc hoa mai màu vàng
Chưa đeo còn sáng bóng
Kèm với ngôi sao bạc
Chiếc hoa mai màu vàng
Chưa đeo còn sáng bóng
Em tặng anh tuổi ngọc
Của những ngày yêu nhau
Đã chết ngay từ lúc
Em nhận được tin sầu
Của những ngày yêu nhau
Đã chết ngay từ lúc
Em nhận được tin sầu
Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương
Em tặng anh mây vương
Mắt em ngày tháng hạ
Em tặng anh đông giá
Giữa tuổi xuân cuộc đời
Mắt em ngày tháng hạ
Em tặng anh đông giá
Giữa tuổi xuân cuộc đời
Anh tặng môi không cười
Anh tặng tay không nắm
Anh tặng mắt không nhìn
Một hình hài bất động
Anh tặng tay không nắm
Anh tặng mắt không nhìn
Một hình hài bất động
Anh muôn vàn tạ lỗi
Xin hẹn em kiếp sau
Mảnh đạn này em giữ
Làm di vật tìm nhau.
Xin hẹn em kiếp sau
Mảnh đạn này em giữ
Làm di vật tìm nhau.
Tháng 7/ 1969
Giấc Mơ Hòa Bình
Em nghe nói hòa bình
Trên những tờ nhật báo
Em nghe nói hòa bình
Trên miệng người lãnh đạo
Trên những tờ nhật báo
Em nghe nói hòa bình
Trên miệng người lãnh đạo
Em để lòng khờ khạo
Ôm giấc mơ hòa bình
Mong chiến tranh chấm dứt
Anh giã từ đao binh
Ôm giấc mơ hòa bình
Mong chiến tranh chấm dứt
Anh giã từ đao binh
Tin về từ trận tuyến
Anh chết giữa chiến trường
Ôi giấc mơ khờ khạo
Chỉ còn là đau thương
Anh chết giữa chiến trường
Ôi giấc mơ khờ khạo
Chỉ còn là đau thương
Từ khi em ra đời
Từ khi có trí khôn
Em thấy toàn chém giết
Em thấy toàn máu xương
Từ khi có trí khôn
Em thấy toàn chém giết
Em thấy toàn máu xương
Từ khi em biết nghe
Từ khi em biết nói
Toàn những lời giả dối
Toàn những lời hứa suông
Từ khi em biết nói
Toàn những lời giả dối
Toàn những lời hứa suông
Từ khi em biết yêu
Từ khi em biết nhớ
Anh đã dặn đợi chờ
Rồi anh không về nữa
Từ khi em biết nhớ
Anh đã dặn đợi chờ
Rồi anh không về nữa
Ôi giấc mơ khờ khạo
Ôi giấc mơ hòa bình
Xây giữa lòng tham bạo
Chết trước khi thành hình
Ôi giấc mơ hòa bình
Xây giữa lòng tham bạo
Chết trước khi thành hình
Ôi lòng non bé nhỏ
Như giấy trắng thơm tho
Vết mực đen loang lổ
Làm hoen ố hồn thơ
Như giấy trắng thơm tho
Vết mực đen loang lổ
Làm hoen ố hồn thơ
Em đã biết giận thù
Biết cuộc đời dối trá
Trang nhất nói hòa bình
Trang tư toàn cáo phó
Biết cuộc đời dối trá
Trang nhất nói hòa bình
Trang tư toàn cáo phó
Em không còn bồng bột
Tin những lời đầu môi
Em bắt đầu tỉnh ngộ
Thì đã mất anh rồi
Tin những lời đầu môi
Em bắt đầu tỉnh ngộ
Thì đã mất anh rồi
Ôi giấc mơ hòa bình
Anh trả bằng sự sống
Em trả bằng tủi hờn
Bằng một đời đơn độc
Anh trả bằng sự sống
Em trả bằng tủi hờn
Bằng một đời đơn độc
Tháng 7/1969
Cao La
( sưu tầm )
( sưu tầm )
Ảnh :Nhà thơ nhà văn Trần Mộng Tú (Ảnh:Uyên Nguyên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét