Các thi nhân ngày xưa hưởng nhàn
bằng nhiều cách khác nhau. Họ hầu hết là vua hay quan lại triều đình , sau khi
từ quan hoặc về hưu vì già , thường dùng những năm tháng còn lại của cuộc đời
để ngao du sơn thủy hoặc đi thăm bạn bè cùng làm quan chung thuở trước để
hàn huyên tâm sự. Để tìm hiểu cách hưởng nhàn của họ , người ta thường dựa vào
tài liệu thơ văn để lại, có khi là những giai thoại nữa. Riêng nhà thơ Tuệ
Trung Thượng Sĩ có một nhân thân khá đặc biệt : ông vừa là nhà thơ vừa là một
quan chức lớn trong triều đình, lại là anh rể vừa là anh họ vua Trần Thánh
Tông.
Sau đây ta tìm hiểu về thú hưởng nhàn của ông qua bài thơ Giang Hồ Tự Thích( Kỳ 2). Tựa bài trên ,kỳ 1, không có gì đặc biệt(4 câu thất ngôn tứ tuyệt) coi như giới thiệu mở bài cho kỳ 2 nên tôi bỏ qua.
Bản chữ Hán: Phiên âm:
江湖自適 (其二) Giang hồ tự thích (kỳ II)
湖海初心未始磨 Hồ hải sơ tâm vị thuỷ ma,
光陰如箭又如梭 Quang âm như tiễn hựu như thoa.
清風明月生涯足 Thanh phong minh nguyệt sinh nhai túc,
綠水青山活計多 Lục thuỷ thanh sơn hoạt kế đa.
曉掛孤帆淩汗漫 Hiểu quải cô phàm lăng hãn mạn,
晚橫短笛弄煙波 Vãn hoành đoản địch lộng yên ba.
謝三今已無消息 Tạ Tam kim dĩ vô tiêu tức,
Sau đây ta tìm hiểu về thú hưởng nhàn của ông qua bài thơ Giang Hồ Tự Thích( Kỳ 2). Tựa bài trên ,kỳ 1, không có gì đặc biệt(4 câu thất ngôn tứ tuyệt) coi như giới thiệu mở bài cho kỳ 2 nên tôi bỏ qua.
Bản chữ Hán: Phiên âm:
江湖自適 (其二) Giang hồ tự thích (kỳ II)
湖海初心未始磨 Hồ hải sơ tâm vị thuỷ ma,
光陰如箭又如梭 Quang âm như tiễn hựu như thoa.
清風明月生涯足 Thanh phong minh nguyệt sinh nhai túc,
綠水青山活計多 Lục thuỷ thanh sơn hoạt kế đa.
曉掛孤帆淩汗漫 Hiểu quải cô phàm lăng hãn mạn,
晚橫短笛弄煙波 Vãn hoành đoản địch lộng yên ba.
謝三今已無消息 Tạ Tam kim dĩ vô tiêu tức,
(慧中上士) (Tuệ Trung
Thượng Sĩ)
Chú thích từ ngữ :
thích(適): ham, muốn , sở thích.
hồ(湖): ao( mcó bộ thủy, là nước)
sơ(初): lúc sơ khởi, ban đầu.
thủy(始): mới , trước. Một âm nữa là thí. Vị thí : chưa từng.
ma(磨): mài
quang âm(光陰): thời gian
tiễn(箭): mũi tên
thoa(梭): con thoi
sinh nhai(生涯): kiếm sống, sinh kế.
túc(足): đầy đủ
hoạt(活): năng động.
hiểu(曉): sớm mai, buổi sáng (có bộ nhật đứng trước chỉ ban ngày, mặt trời).
quái(掛): treo lên , cũng đọc là quải.
lăng(淩): trải qua, vượt qua. Lăng sơn : vượt qua núi.
hãn(汗): mồ hôi,tan lở, cái gì đã ra không trở lại được nữa.
mạn(漫): nước tràn đầy , không bó buộc.
lăng hãn mạn(淩汗漫): đã nhiều khi đi lang bang.
vãn(晚): buổi chiều.
địch(笛): ống sáo( bộ trúc trên đầu, chỉ cây tre, trúc).
Tạ Tam (謝三): tên người, không rõ là ai.
tiêu tức(消息,): tin tức
không(空): trống rỗng.
thiển(淺): mỏng
Chú thích từ ngữ :
thích(適): ham, muốn , sở thích.
hồ(湖): ao( mcó bộ thủy, là nước)
sơ(初): lúc sơ khởi, ban đầu.
thủy(始): mới , trước. Một âm nữa là thí. Vị thí : chưa từng.
ma(磨): mài
quang âm(光陰): thời gian
tiễn(箭): mũi tên
thoa(梭): con thoi
sinh nhai(生涯): kiếm sống, sinh kế.
túc(足): đầy đủ
hoạt(活): năng động.
hiểu(曉): sớm mai, buổi sáng (có bộ nhật đứng trước chỉ ban ngày, mặt trời).
quái(掛): treo lên , cũng đọc là quải.
lăng(淩): trải qua, vượt qua. Lăng sơn : vượt qua núi.
hãn(汗): mồ hôi,tan lở, cái gì đã ra không trở lại được nữa.
mạn(漫): nước tràn đầy , không bó buộc.
lăng hãn mạn(淩汗漫): đã nhiều khi đi lang bang.
vãn(晚): buổi chiều.
địch(笛): ống sáo( bộ trúc trên đầu, chỉ cây tre, trúc).
Tạ Tam (謝三): tên người, không rõ là ai.
tiêu tức(消息,): tin tức
không(空): trống rỗng.
thiển(淺): mỏng
Đôi dòng về
tiểu sử tác giả:
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士; 1230 - 1291) tên thật là Trần Tung (陳嵩, hay Trần Quốc Tung, là con trưởng An Sinh Vương Trần Liễu, là một thành viên trong hoàng tộc nhà Trần với tước hiệu Hưng Ninh Vương ( anh ruột Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm, vợ vua Trần Thánh Tông), và là một thiền sư Việt Nam. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Ông là người Tức Mặc phủ Thiên Trường nay thuộc tỉnh Nam Định. Ông tham gia 3 cuộc kháng chiến chống Mông- Nguyên(1257,1285,1287).
Từ nhỏ chuộng cửa Khổng sân Trình,tham vấn thiền sư Tiêu dao. Sau lùi về ấp Tịnh Bang lập Dưỡng Chân Trang để tu tập Phật pháp.
Được vua Trần Thánh Tông mời vào bàn về đạo ,tôn làm sư huynh, hiệu Thượng Sĩ.Vua Trần Nhân Tông tôn ông làm thầy.
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士; 1230 - 1291) tên thật là Trần Tung (陳嵩, hay Trần Quốc Tung, là con trưởng An Sinh Vương Trần Liễu, là một thành viên trong hoàng tộc nhà Trần với tước hiệu Hưng Ninh Vương ( anh ruột Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm, vợ vua Trần Thánh Tông), và là một thiền sư Việt Nam. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Ông là người Tức Mặc phủ Thiên Trường nay thuộc tỉnh Nam Định. Ông tham gia 3 cuộc kháng chiến chống Mông- Nguyên(1257,1285,1287).
Từ nhỏ chuộng cửa Khổng sân Trình,tham vấn thiền sư Tiêu dao. Sau lùi về ấp Tịnh Bang lập Dưỡng Chân Trang để tu tập Phật pháp.
Được vua Trần Thánh Tông mời vào bàn về đạo ,tôn làm sư huynh, hiệu Thượng Sĩ.Vua Trần Nhân Tông tôn ông làm thầy.
Sáng tác được gom lại trong sách
Thượng Sĩ Ngữ Lục, gồm các bài giảng do sư Pháp Loa ghi lại và 47 bài thơ.
Dịch nghĩa:
Tấm lòng hồ hải trước đây chưa từng
bị tiêu mòn,
Thời gian vun vút như tên lại như thoi.
Gió mát trăng thanh, sinh nhai đủ,
Non xanh nước biếc, kế sống dồi dào.
Buổi sớm, kéo cánh buồm cô đơn băng mặt nước mênh mông,
Chiều hôm, cầm ngang chiếc sáo ngắn, đùa với khói sóng.
Tạ Tam nay đã không còn tăm hơi gì nữa,
Chỉ còn lưu lại chiếc thuyền trống không, ghếch đầu lên bãi cát.
Thời gian vun vút như tên lại như thoi.
Gió mát trăng thanh, sinh nhai đủ,
Non xanh nước biếc, kế sống dồi dào.
Buổi sớm, kéo cánh buồm cô đơn băng mặt nước mênh mông,
Chiều hôm, cầm ngang chiếc sáo ngắn, đùa với khói sóng.
Tạ Tam nay đã không còn tăm hơi gì nữa,
Chỉ còn lưu lại chiếc thuyền trống không, ghếch đầu lên bãi cát.
Phân tích và những lời bình:
Đây là bài thơ thất ngôn bát cú
Đường luật, luật trắc vần bằng. Thời điểm sáng tác chưa xác định rõ nhưng có
thể biết được là sau năm 1287,khi Tuệ Trung Thượng Sĩ(TTTS) hoàn tất trách
nhiệm nam nhi là giúp vua nhà Trần đánh tan quân xăm lược Mông-Nguyên. Tác giả
và tác phẩm được xếp vào nền văn học thời thịnh Trần.
TTTS, như đã trình bày trong phần
tiểu sử , có một cuộc sống rất đầy đủ. Ông không phải lăn lóc vật lộn với cuộc
sống hằng ngày như một số thi nhân khác. Ông thăng quan tiến chức một cách
nhanh chóng do tài năng của mình , bên cạnh đó là gia tộc quyền quý, tạo cho
ông uy tín đựơc vua khen ngợi, coi trọng như thầy. Ông lại là người dấn thân
tham gia trực tiếp vào binh lữa, chống ngoại xăm, nên có nhiều suy nghĩ về cuộc
sống khác hẳn với quan lại trong triều. Ông sớm từ giã quan trường để lập
thiền viện Dưỡng Chân Trang tu Phật
pháp. Những khi nhà rỗi ông đi ngao du sơn thủy , mà thích nhất là đi bằng
thuyền. Đặc biệt ông đi một mình bằng thuyền độc mộc vượt qua sông suối ghềnh thác
mênh mông. Sở thích nầy ông mơ ước từ nhỏ, mãi về sau , khi làm xong bổn phận
nam nhi ông mới thực hiện mộng ước của mình, ông nhũ thầm thời gian sao nhanh
quá như tên bay như thoi đưa, mới đó mà ta đã già :
Hồ hải sơ tâm vị thuỷ ma,
Quang âm như tiễn hựu như thoa.
(Tấm lòng hồ hải trước đây chưa từng
bị tiêu mòn,
Thời gian vun vút như tên lại như thoi).
Thời gian vun vút như tên lại như thoi).
TTTS đã nhận ra đựoc cuộc đời ngắn ngủi
của kiếp nhân sinh mà đời nầy là cõi tạm.
“ Ôi ! Nhân sinh là thế, như bóng
đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao…”
Và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì:
“ Ta nay ở trọ trần gian, mai kia về
chốn xa xôi cuối nguồn"
TTTS có một cuộc sống sung túc nên
khi đi du ngoạn đó đây ông không bận tâm
về hao tốn, thiếu thốn. Sự sung túc khiến ông phấn chấn tinh thần nhất là những
đêm trăng thanh gió mát ngồi uống rượu hoặc trà rồi ngâm thơ thì tuyệt biết
chừng nào! trái hẳn với cái nghèo của Nguyễn Công Trứ, thuở hàn vi, được miêu tả như sau:
"Bốn vách tường mo,
Ba gian nhà cỏ .
Đầu kèo mọt đục vẽ sao,
Trước cửa nhện giăng màn gió .
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ..."
(Hàn nho phong vị phú/ Nguyễn Công
Trứ)
Còn đối với Cao Bá Quát , cảnh nghèo còn thê thảm hơn nhiều nên chắc ông
không có hứng thú để chèo thuyền du ngoạn ngắm hang động:
"Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướp
tướp, ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa;
Đèn cỏn con co chiếc chiếu loi thoi,
đêm tịch mịch soi chung vừng trăng tỏ ..."
(Tài tử đa cùng phú/Cao bá Quát)
Cảnh non xanh nứơc biếc hữu tình gợi cho TTTS tình cảm thiết tha yêu mến
quê hương đất nước :
Thanh phong minh nguyệt sinh nhai
túc,
Lục thuỷ thanh sơn hoạt kế đa.
(Gió mát trăng thanh, sinh nhai đủ,
Non xanh nước biếc, kế sống dồi
dào).
Khắp nước Việt Nam nơi nào cũng có
nhiều danh lam thắng cảnh. Sáng sớm TTTS quải thuyền con ra bến sông, đưa
thuyền xuống nước, chèo lướt qua hang động, đâm ra cửa sông lớn, rộng mênh mông
mờ sương khói của buổi ban mai hay len lỏi qua ghềnh thác dưới màng nước đổ.
Ban chiều ngồi trên thuyền , cầm ngang chiếc sáo trúc thổi vi vu đùa cùng khói
sóng mù mịt trên sông:
Hiểu quải cô phàm lăng hãn mạn,
Vãn hoành đoản địch lộng yên ba.
(Buổi sớm, kéo cánh buồm cô đơn băng
mặt nước mênh mông,
Chiều hôm, cầm ngang chiếc sáo ngắn,
đùa với khói sóng).
Với quan Tư đồ Trần Nguyên Đán 陳元旦(1325-1390), ông
thưởng thức thú vui bằng cách đi thăm núi Chí Linh có đỉnh Phượng Hoàng miền
Bắc Việt Nam :
雙鳳悠然望杳冥
鳳凰萬古愛芳名
(Song Phượng du nhiên vọng liểu minh,
Phượng Hoàng vạn cổ ái phương danh).
(Tạm dịch: Từ xa thấy thấp thoáng
đỉnh Song Phượng mịt mù
Núi Phượng Hoàng nổi tiếng từ ngàn
xưa).
Tác giả giới thiệu phong cảnh núi Chí Linh, nhìn từ xa, trông thật hùng
vĩ, có đỉnh Song Phượng sừng sửng giữa khung trời bao la mây phủ mịt mù bao
trùm cả đỉnh. Đứng trước cảnh hùng vĩ của đất trời, con người trở nên nhỏ bé lạ
thường. Núi Phựợng Hoàng là một danh lam thắng cảnh của Việt Nam đã nổi tiếng
tự ngàn xưa vì vẻ đẹp của nó.
Tiếp theo cũng trong bài nầy, Trần
Nguyên Đán tả cảnh hùng vĩ của ngọn tháp Lân Phong:
麟峰塔倒如虹影
鱉水泉鳴作雨聲
(Lân Phong tháp đảo như hồng ảnh,
Miết Thuỷ tuyền minh tác vũ thanh)
(Tạm dịch: Tháp trên núi Lân Phong
nghiêng xuống như bóng cầu vồng,
Suối Miết Thủy chảy róc rách tựa
tiếng mưa rơi).
Hai câu thơ thật xuất sắc khi tả ngọn tháp Lân Phong cao vút trong cảnh trời chiều, bóng nó nghiêng, đổ
xuống như chiếc cầu vồng tuyệt đẹp của môt bức tranh thủy mặc. Nhìn xuống thung
lũng thấy suối Miết thủy chảy róc rách tựa tiếng mưa rơi. Hai câu thơ vừa có
hình ảnh vùa có âm hanh thật tuyệt vời. Nghệ thuật tả cảnh thật điêu luyện
khiến người đọc cảm thấy như mình đang đứng trước cảnh núi non hùng vĩ, tai
nghe tiếng suối reo chảy quanh đây.
Tới đây xin được nói qua về thú
hưởng nhàn của nhà thơ Vương Duy 王維 (699-759) thời Thịnh
Đường bên Trung Quốc khi ông từ quan về sống ẩn dật nơi quê nhà, vì cuộc đời
ông nầy có nhiều điểm giống Trần Nguyên Đán. Trong một lần ngao du sơn thủy, Vương Duy dùng thuyền băng qua sông
Hoàng Hoa (giống cách tiêu khiển của TTTS) để tiến vào vùng suối nước Thanh
Khê. Ngồi trên phiến đá phẳng lì, ông ngắm dòng suối trong vắt cạnh rừng thông
vắng lặng, sâu hun hút trong màn sương rồi buông cần câu chờ thời vận, cũng để
quên hết sự đời.
Trở lại bài thơ của TTTS, hai câu kết:
Tạ Tam kim dĩ vô tiêu tức,
Lưu đắc không thuyền các thiển sa.
(Tạ Tam nay đã không còn tăm hơi gì
nữa,
Chỉ còn lưu lại chiếc thuyền trống
không, ghếch mình lên bãi cát).
Chiều tàn rên bãi vắng , TTTS chợt
nhớ tới Tạ Tam , không biết bây giờ ra sao? Người còn đó hay đã về với cát bụi?
Lâu rồi không còn nghe tin tức !
Còn lại nơi đây chỉ là chiếc buồm
trống không rách nát ghếch đầu trên bãi cát buồn thiu !
Khi tuổi về chiều tác giả nhìn về
quá khứ thấy mình đã hưởng đủ mọi thứ vui vật chất cũng như ngao du đó đây nên
cảm thấy không còn gì luyến tiếc hay ước mơ nữa. Tất cả đã đi qua như một giấc
mộng, tác giả cảm thấy lòng se thắt ngậm ngùi. Nỗi buồn hiu hắt còn đọng lại
trong 2 câu thơ cuối:
"Tạ Tam giờ tìm đâu thấy
Chỉ thấy thuyền không gác bãi nông".
Dịch thơ:
1/
Vui thú sông hồ
Mộng hải hồ lòng vẫn ước mong
Tháng ngày vun vút lướt qua song
Trăng thanh gió mát sinh nhai đủ
Nước biếc non xanh lạc thú cùng
Sáng kéo buồm côi băng sóng cả
Chiều nâng sáo ngắn đuổi mây lồng
Tạ Tam nay đã tăm hơi biệt
Thuyền trống nằm trơ ghếch bãi nông.
(Nguyễn Cang)
2/ Bản dịch của Nguyễn Tấn Hưng:
Ước mơ hồ hải nặng bên lòng,
Ngày tháng thoi đưa những uổng công.
Gió mát trăng trong sinh kế đủ
Non xanh nước biếc thú vui cùng.
Sớm tếch buồm côi sông nước rộng
Chiều nâng sáo nhỏ khói mây lồng.
Tạ Tam nay đã tăm hơi bặt
Thuyền rạn nằm trơ gối bãi nông.
2/ Bản dịch của Nguyễn Tấn Hưng:
Ước mơ hồ hải nặng bên lòng,
Ngày tháng thoi đưa những uổng công.
Gió mát trăng trong sinh kế đủ
Non xanh nước biếc thú vui cùng.
Sớm tếch buồm côi sông nước rộng
Chiều nâng sáo nhỏ khói mây lồng.
Tạ Tam nay đã tăm hơi bặt
Thuyền rạn nằm trơ gối bãi nông.
3/ Phỏng dịch:
Tuổi xanh trăng hồ hải
Bây giờ tóc muối tiêu
Còn có chi mơ nữa?
Tương cà chỉ bấy nhiêu!
Sáng lênh đênh thuyền liễu
Chiều nổi sáo trong sương
Tìm Tạ Tam đâu thấy
Chỉ thấy thuyền không gác bãi nương.
(V. Ng)
Nguyễn Cang(25/10/2017)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét