Trong
một thời gian dài trước đây, cứ đến mùa công bố giải Nobel vào đầu
tháng 10 hàng năm, dư luận Trung Quốc lại ồn ào về một vấn đề hầu như
muôn thủa: Vì sao năm nay nước ta lại không giành được giải Nobel?
Cơn “khát Nobel” ấy đã phần nào giải tỏa sau khi Mạc Ngôn được trao giải Nobel Văn học năm 2012. Song giải Nobel Khoa học – giải danh giá nhất – thì mãi đến năm 2015 mới có một công dân Trung Quốc giành được: đó là bà Đồ U U (giải Nobel Y-Sinh). Thực ra từ năm 1957 tới nay đã có một số người Hoa được trao giải Nobel Khoa học, nhưng tất cả đều có quốc tịch nước khác. Ngay nước Nhật láng giềng xưa từng nườm nượp kéo nhau sang học sư phụ Trung Quốc, từ cuối thế kỷ XIX họ quay sang học người Âu Mỹ, thực hành “Thoát Á nhập Âu”, nhờ thế nhanh chóng hiện đại hóa, vượt xa sư phụ cũ, từ năm 1949 tới nay đã giành được 21 giải Nobel Khoa học. Vì sao Trung Quốc không làm được như vậy?
Đi tìm lời giải đáp
Trung Quốc có nền văn minh lâu đời nhất
nhì thế giới, chiếm 1/5 số dân toàn cầu, 70 năm gần đây đã lập được
nhiều thành tựu vĩ đại…, thế mà mới chỉ giành được một giải Nobel khoa
học. Từ lâu người Trung Quốc đã cố tìm hiểu xem điều gì cản trở họ không
giành được số lượng giải Nobel tương xứng.
Những người châu Âu đầu tiên đến Trung Quốc hồi thế kỷ XV nhận định xứ này chưa có khoa học kỹ thuật (KHKT). Từ giữa thế kỷ XIX, sau khi tiếp xúc quy mô lớn với phương Tây, giới trí thức Trung Quốc bắt đầu bàn cãi về sự lạc hậu ấy. Sử gia Phùng Hữu Lan quy kết đó là do các khiếm khuyết về phương pháp nghiên cứu, tư tưởng triết học, giá trị quan. Vương Tấn đổ lỗi cho sự chuyên chế của chính quyền phong kiến và chuyên chế về học thuật, ví dụ Kinh Dịch và nhiều kinh điển khác được coi là toàn năng, chứa đựng toàn bộ tri thức. Lương Khải Siêu kết tội chế độ khoa cử sai lầm dựa vào trình độ văn bát cổ (văn 8 vế; một loại văn khuôn sáo xơ cứng) để chọn người làm quan v.v…
Nhiều học giả nước ngoài cũng quan tâm vấn đề KHKT cận đại không nảy sinh tại Trung Quốc. Năm 1953 Einstein nói Trung Quốc lạc hậu sau phương Tây là do nước này không có hai nền tảng của sự phát triển KHKT – hệ thống logic hình thức (formal logical system) và công tác thực nghiệm khoa học nhằm phát hiện quan hệ nhân quả.[1] Bởi vậy Trung Quốc không có khoa học cận đại, chỉ có kỹ thuật nhưng cũng chỉ là kỹ thuật dựa trên kinh nghiệm chứ không phải là kỹ thuật dựa trên cơ sở khoa học.
Joseph Needham (1900-1995) một nhà khoa học Anh rất ngưỡng mộ văn minh Trung Hoa nêu câu hỏi: Tại sao văn minh Trung Hoa từng dẫn đầu thế giới một thời gian dài nhưng từ thế kỷ XVI lại tụt sau văn minh phương Tây? Người Trung Quốc tranh cãi suốt về vấn đề này, cho tới nay vẫn chưa có giải đáp nhất trí, vì thế họ gọi là Nan đề Needham (Needham’s Grand Question).
Từ sau năm 1949 Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã dốc sức phát triển KHKT, trước hết là KHKT quân sự và thăm dò vũ trụ, làm được bom hạt nhân, tên lửa, máy bay chiến đấu hiện đại, tàu ngầm… và là một trong số vài nước đưa được tàu vũ trụ hạ cánh xuống Mặt Trăng. Nhưng họ cũng thừa nhận là về KHKT còn kém các nước phát triển một khoảng cách. Tại sao sự lạc hậu ấy lại kéo dài cho tới nay, tuy họ không thiếu tiền, có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới? Chắc hẳn phải có những nguyên nhân nằm ở tầng sâu nền văn hoá truyền thống. Giải Nobel Khoa học chủ yếu vinh danh các thành tựu nghiên cứu cơ bản mà các thành tựu đó phải ươm mầm trên mảnh đất có nền tảng khoa học lâu đời.
Lời giải đáp gây chấn động dư luận
Ngày 3/9/2004 nhà khoa học người Hoa chủ nhân giải Nobel Vật lý 1957 Dương Chấn Ninh[2]đọc tại “Diễn đàn đỉnh cao văn hóa 2004” ở Bắc Kinh bản báo cáo “Ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với văn hóa Trung Quốc”. Báo cáo này được truyền thông đăng tải dưới tiêu đề kích động “Dương Chấn Ninh nổ súng vào Kinh Dịch” đã gây ồn ào trong dư luận.
Để giải đáp câu hỏi vì sao khoa học cận đại không nảy sinh ở Trung Quốc, Dương Chấn Ninh tóm tắt nội dung những người đi trước đã bàn luận thành 5 lý lẽ giải thích:
1) Văn hóa Trung Quốc có truyền thống nhập thế [gánh vác việc đời, can dự vào việc thế gian; là quan điểm của Nho giáo] chứ không xuất thế [lánh đời, không tham gia việc thế gian; như quan điểm ở ẩn, đi tu của đạo Phật]; tức chỉ trọng thực tế mà coi nhẹ lý luận trừu tượng.
2) Chế độ khoa cử (dùng thi cử để tuyển chọn quan chức).
3) Không coi trọng kỹ thuật.
4) Tư duy truyền thống của Trung Quốc không có phương pháp suy diễn.
5) Văn hoá truyền thống Trung Quốc áp dụng quan niệm triết học thiên nhân hợp nhất.
Theo ông, hai lý lẽ sau cùng có liên quan chặt chẽ với Kinh Dịch. Kinh điển này đã ảnh hưởng tới phương thức tư duy của văn hóa Trung Quốc, ảnh hưởng đó là một trong các nguyên nhân quan trọng làm cho khoa học cận đại không nảy mầm tại nước này.
Suy diễn và quy nạp là hai phương pháp tư duy không thể thiếu trong khoa học cận đại. Quy nạp là sự suy lý từ tiền đề cụ thể chuyển tiếp tới kết luận có tính khái quát. Nó có chức năng khái quát tình hình chung và suy đoán kết quả trong tương lai, kết luận của nó đều vượt quá phạm vi của tiền đề. Ngược lại, suy diễn (hoặc diễn dịch) là sự suy lý từ tiền đề có tính chung chung chuyển tiếp tới kết luận cụ thể; kết luận của nó không vượt quá phạm vi của tiền đề.
Khoa học cận đại phát triển được là nhờ đã kết hợp hai phương pháp này, ví dụ phương trình Maxwell. Quy nạp là tinh thần xuyên suốt Kinh Dịch; bởi thế văn hóa truyền thống Trung Quốc chỉ có phép quy nạp mà không có phép suy diễn, đồng thời cũng không chú ý logic và trình tự thuyết lý, mà đòi hỏi người đọc tự hiểu ra kết luận cuối cùng.
Quan niệm triết học Thiên nhân hợp nhất bắt nguồn từ Kinh Dịch: mỗi quẻ đều bao hàm đạo trời, đạo đất và đạo người; coi quy luật của trời và quy luật của người là một; trong khi đó khoa học cận đại đòi hỏi phải thừa nhận thế gian người có quy luật và các hiện tượng phức tạp riêng, khác với “Trời” (giới tự nhiên); hai chuyện ấy không thể hợp làm một như quan điểm của Kinh Dịch.
Kinh Dịch được coi là Quốc bảo, là Sách Trời, là suối nguồn của nền văn minh Trung Hoa. Nhiều người Hoa cho rằng toàn bộ các khám phá khoa học hiện có và chưa có đều đã được viết sẵn trong Kinh Dịch, chỉ đợi phát hiện; vì thế dựa vào kinh điển này Trung Quốc sẽ bá chủ thế giới!
Thế mà giờ đây Dương Chấn Ninh cho rằng vì tư tưởng và phương pháp của Kinh Dịch hoàn toàn xa lạ với khoa học nên khoa học cận đại không ra đời tại Trung Quốc.
Ông phát biểu: Có nhiều người Trung Quốc đi đâu cũng nói bừa, hoặc bảo trong Kinh Dịch có hạt giống của khoa học cận đại, hoặc bảo Kinh Dịch dẫn đường cho khoa học phát triển. Những thói mê tín truyền thống có vô vàn mối liên hệ với Kinh Dịch như phong thủy, bói toán, cảm ứng trời người, vu thuật … trong khi được dựng lên từ đống tro tàn lại còn khoác cái áo khoa học; có người nói đấy là những “khoa học mới”, “khoa học tiềm ẩn”, nói Kinh Dịch là trước tác khoa học đi trước thời gian, chứa nhiều phát kiến khoa học lớn như cơ học lượng tử, thuyết tương đối, lý thuyết máy tính, mật mã di truyền v.v… Có người muốn dùng Kinh Dịch để chỉ đạo nghiên cứu khoa học, để dự báo khí tượng, để đề xuất “mô hình nguyên tử thái cực”, suy ra “hệ mặt trời có 14 đại hành tinh” v.v…
Quan điểm của Dương Chấn Ninh cũng giống ý kiến của Einstein và một số nhà khoa học Trung Quốc trước đây, nhưng ông đi sâu quy kết vào ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với phương thức tư duy của người Trung Quốc.
Dương Chấn Ninh nhấn mạnh ông không hề công kích triết học truyền thống Trung Quốc; ông nói nội hàm của thiên nhân hợp nhất không chỉ có nội ngoại nhất lý [nội: sự việc của đời người; ngoại: sự việc của thiên nhiên; nhất lý: quy nạp hai cái này làm một thể] mà còn có cái quan trọng hơn, là thiên nhân hòa hài [trời người hài hòa], một yếu tố có ảnh hưởng cực kỳ lớn tới tư duy truyền thống và xã hội Trung Quốc, quan trọng hơn cả việc khoa học cận đại không xuất hiện tại nước này. Nhất là gần đây Đảng Cộng sản Trung Quốc đề cao xã hội hài hòa, coi là một yếu tố để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
Tranh cãi
Một số nhà Quốc học, Dịch Học Trung Quốc nhận định bản báo cáo của Dương Chấn Ninh đã “nổ súng” vào Kinh Dịch, như vậy ông đã trở thành kẻ “ly kinh phán đạo” [xa rời đạo lý truyền thống]. Họ xúm vào phê phán thậm chí thóa mạ ông, chủ yếu chê ông không hiểu Kinh Dịch mà làm ra vẻ hiểu, nói toàn những lời ngoại đạo. Có người còn moi móc chuyện ngày xưa ông vào quốc tịch Mỹ, chuyện ông 82 tuổi lấy vợ 28 tuổi… để chê ông không yêu nước, không đứng đắn – cho dù trước đây khi ông về giúp Trung Quốc phát triển KHKT họ hết lời ca ngợi ông là nhà yêu nước, là Einstein của Trung Quốc.
Nhà Dịch học nổi tiếng Lưu Đại Quân nói báo cáo của Dương Chấn Ninh “có rất nhiều sai lầm thường thức” và nêu ví dụ: “Kinh Dịch là bộ sách bói toán sớm nhất mà phương pháp bói toán thì dựa vào sự suy diễn, cử nhất phản tam [nêu một suy ra ba], sao có thể nói là không có phương pháp suy diễn? Ngoài ra, Kinh Dịch là cuốn sách có giá trị phổ quát toàn thế giới; từ góc độ ấy có thể thấy đây cũng là một sự suy diễn nghĩa rộng.”
Phái đối lập nhận xét các phê phán kể trên thiếu cơ sở lý luận. Theo nhà khoa học Phương Châu Tử thì phép suy diễn Dương Chấn Ninh nói là sự suy lý logic, từ một số mệnh đề chung chung đã thành lập mà suy ra các kết luận đặc biệt, thí dụ trong hình học Euclid, từ tiên đề đi tới định lý sau đó đến chứng minh; nó hoàn toàn khác với cách suy diễn của bói toán trong Kinh Dịch mà Lưu Đại Quân nói. Phương Châu Tử nhận xét: Cũng như Einstein, Dương Chấn Ninh coi hệ thống logic hình thức là một trong những suối nguồn của khoa học cận đại và cho rằngTrung Quốc thiếu cái nguồn gốc đó.
Trên thực tế, văn hóa truyền thống Trung Quốc chẳng những thiếu phép suy diễn chặt chẽ hợp logic mà cũng thiếu cả phép quy nạp chặt chẽ hợp logic. Dương Chấn Ninh cho rằng trong Kinh Dịch, cái gọi là phép quy nạp của “thủ tượng bỉ loại [lấy hình so loại]”, “quan vật thủ tượng [xem vật lấy hình]” thực ra là phép loại suy không hợp logic dưới sự chỉ đạo của quan niệm thần bí “thiên nhân hợp nhất”.
Chẳng hạn: “Khô dương sinh hoa, lão phu đắc kỳ nữ thê, vô bất lợi “ [cây dương khô héo nhú mầm, ông già lấy cô gái đáng tuổi con làm vợ thì không có gì bất lợi]; “Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sĩ phu, vô cữu vô dự” [cây dương khô héo nhú mầm, bà già lấy chàng trai khỏe mạnh, chẳng có hại cũng chẳng đáng khen]. Giữa các sự việc “khô dương sinh hoa” với “lão phu đắc kỳ nữ thê” hoặc với “lão phụ đắc kỳ sĩ phu” , tức giữa đạo trời với đạo người chỉ có tính tương tự mơ hồ mà không tồn tại mối quan hệ tất nhiên hợp logic; từ đó quy nạp được kết luận “vô bất lợi”, “vô cữu vô dự” lại càng không thể đứng vững. Kiểu “suy diễn” như vậy chẳng qua là sự phản ánh quan niệm xã hội nam tôn nữ ty hoặc có chút lý lẽ về sinh lý, thế nhưng không có liên can gì tới suy lý logic.
Dương Chấn Ninh biện luận
Dương Chấn Ninh phản đối việc giới báo chí nói ông “nổ súng” vào Kinh Dịch và thanh minh: 80% nội dung bản báo cáo trên là ca ngợi mặt tích cực, 20% nói về mặt tiêu cực của Kinh Dịch, nhưng thiên hạ lại chỉ nhìn vào 20% ấy. Vì sao Trung Quốc ngày xưa từng có đóng góp rất lớn về KHKT, thế mà khoa học cận đại lại không thể nảy mầm ở Trung Quốc? “Tôi suy nghĩ và nhìn thấy một lý lẽ người khác trước đây ít để ý. Đó là Trung Quốc không có phương pháp suy diễn”, ông nói.
Kể từ Kinh Dịch trở đi, người Trung Quốc đã không còn dùng phương pháp suy diễn nữa; chưa kể phương pháp của Kinh Dịch ngược với phương pháp suy diễn, do đó nó làm cho người Trung Quốc coi quy nạp là phương pháp tư duy duy nhất. Nếu nói tôi có một quan điểm cách mạng nào, thì đó là tôi đã vạch ra vết thương chí mạng ấy. Cho nên người ta không thích… Phương Tây có thái độ đối với học thuật khác với Trung Quốc: chúng ta quá tôn sư trọng đạo. Tiền nhân nói gì, Khổng Tử, Mạnh Tử nói gì thì không được bình luận mà phải coi là tuyệt đối đúng. Lời thầy giáo cũng thế. Thái độ ấy quá ư thâm căn cố đế.
Tạm kết
Có thể thấy phần lớn lời bàn xung quanh vấn đề nêu trên đều quy kết về phương pháp tư duy, cho rằng người Trung Quốc mạnh về tư duy trực giác, yếu về tư duy logic. Suy diễn Dương Chấn Ninh nói là phương pháp tư duy có tính logic, đòi hỏi phải từ hiện tượng quan sát thấy mà phân tích, giải thích, suy diễn, lập luận, tìm ra quy luật chung. Các kinh điển của văn hóa truyền thống Trung Quốc thường đưa ra những lập luận coi như chân lý mà không hề giải thích, người ta chỉ biết học thuộc lòng, không được nghi ngờ. Mọi khái niệm trong sách của các thánh hiền đều mơ hồ, không có định nghĩa rõ ràng, chính xác, có thể hiểu theo nhiều cách, dễ gây hiểu lầm. Cách tư duy phi logic như vậy không thể sinh ra khoa học.
Xã hội phương Tây khuyến khích nghi ngờ mọi lý thuyết đã có. Sinh viên Mỹ phải học rất nhiều học thuyết, kể cả chủ nghĩa Marx, nhưng nhà trường không khẳng định học thuyết nào duy nhất đúng. Bởi lẽ nếu đã tìm ra chân lý rồi thì còn cần gì sáng tạo học thuyết mới nữa? Nói cách khác, tình trạng nhất nguyên hoá trong hoạt động khoa học xã hội nhân văn và KHKT chính là căn nguyên sâu xa dẫn đến sự trì trệ của trí tuệ phương Đông. Chỉ có đa nguyên hoá mới làm cho các lĩnh vực nói trên luôn phát triển không ngừng.
Việc nhà khoa học có uy tín lớn Dương Chấn Ninh dũng cảm phê phán Kinh Dịch đã khiến người Trung Quốc nhận thấy cần xem xét lại quan điểm đối với các kinh điển văn hóa truyền thống. Trong cuốn “Tái suy ngẫm văn hóa truyền thống Trung Quốc” (xuất bản 2009) Tiêu Kiện Sinh viết: Tuy đã trải qua mấy chục năm cải cách mở cửa, người Trung Quốc vẫn chưa có được nhận thức tỉnh táo về lịch sử nền văn minh của mình, chưa làm rõ đâu là tiên tiến, văn minh, đâu là lạc hậu, dã man. Đây chính là nguyên nhân sâu xa khiến Trung Quốc lúng túng trên bước đường phát triển KHKT.
Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa truyền thống Trung Hoa, vì thế lẽ tự nhiên chúng ta quan tâm tới việc người Trung Quốc đánh giá, kế thừa và phát huy nền văn hóa truyền thống của họ ra sao; qua đó có thể thấy được do đâu chúng ta cũng lạc hậu mãi về KHKT. Cơn sốt Kinh Dịch của người TQ những năm 1990 đã hạ nhiệt từ lâu nhưng hiện nay một số người Việt vẫn coi Kinh Dịch là Sách Trời, có thể tiên đoán chính xác mọi điều; thậm chí còn nói người Việt Nam là tác giả của Kinh Dịch! Đáng tiếc là vấn đề này dường như chưa được dư luận ta quan tâm đúng mức và hăng hái bàn thảo.
Cơn “khát Nobel” ấy đã phần nào giải tỏa sau khi Mạc Ngôn được trao giải Nobel Văn học năm 2012. Song giải Nobel Khoa học – giải danh giá nhất – thì mãi đến năm 2015 mới có một công dân Trung Quốc giành được: đó là bà Đồ U U (giải Nobel Y-Sinh). Thực ra từ năm 1957 tới nay đã có một số người Hoa được trao giải Nobel Khoa học, nhưng tất cả đều có quốc tịch nước khác. Ngay nước Nhật láng giềng xưa từng nườm nượp kéo nhau sang học sư phụ Trung Quốc, từ cuối thế kỷ XIX họ quay sang học người Âu Mỹ, thực hành “Thoát Á nhập Âu”, nhờ thế nhanh chóng hiện đại hóa, vượt xa sư phụ cũ, từ năm 1949 tới nay đã giành được 21 giải Nobel Khoa học. Vì sao Trung Quốc không làm được như vậy?
Đi tìm lời giải đáp
Những người châu Âu đầu tiên đến Trung Quốc hồi thế kỷ XV nhận định xứ này chưa có khoa học kỹ thuật (KHKT). Từ giữa thế kỷ XIX, sau khi tiếp xúc quy mô lớn với phương Tây, giới trí thức Trung Quốc bắt đầu bàn cãi về sự lạc hậu ấy. Sử gia Phùng Hữu Lan quy kết đó là do các khiếm khuyết về phương pháp nghiên cứu, tư tưởng triết học, giá trị quan. Vương Tấn đổ lỗi cho sự chuyên chế của chính quyền phong kiến và chuyên chế về học thuật, ví dụ Kinh Dịch và nhiều kinh điển khác được coi là toàn năng, chứa đựng toàn bộ tri thức. Lương Khải Siêu kết tội chế độ khoa cử sai lầm dựa vào trình độ văn bát cổ (văn 8 vế; một loại văn khuôn sáo xơ cứng) để chọn người làm quan v.v…
Nhiều học giả nước ngoài cũng quan tâm vấn đề KHKT cận đại không nảy sinh tại Trung Quốc. Năm 1953 Einstein nói Trung Quốc lạc hậu sau phương Tây là do nước này không có hai nền tảng của sự phát triển KHKT – hệ thống logic hình thức (formal logical system) và công tác thực nghiệm khoa học nhằm phát hiện quan hệ nhân quả.[1] Bởi vậy Trung Quốc không có khoa học cận đại, chỉ có kỹ thuật nhưng cũng chỉ là kỹ thuật dựa trên kinh nghiệm chứ không phải là kỹ thuật dựa trên cơ sở khoa học.
Joseph Needham (1900-1995) một nhà khoa học Anh rất ngưỡng mộ văn minh Trung Hoa nêu câu hỏi: Tại sao văn minh Trung Hoa từng dẫn đầu thế giới một thời gian dài nhưng từ thế kỷ XVI lại tụt sau văn minh phương Tây? Người Trung Quốc tranh cãi suốt về vấn đề này, cho tới nay vẫn chưa có giải đáp nhất trí, vì thế họ gọi là Nan đề Needham (Needham’s Grand Question).
Từ sau năm 1949 Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã dốc sức phát triển KHKT, trước hết là KHKT quân sự và thăm dò vũ trụ, làm được bom hạt nhân, tên lửa, máy bay chiến đấu hiện đại, tàu ngầm… và là một trong số vài nước đưa được tàu vũ trụ hạ cánh xuống Mặt Trăng. Nhưng họ cũng thừa nhận là về KHKT còn kém các nước phát triển một khoảng cách. Tại sao sự lạc hậu ấy lại kéo dài cho tới nay, tuy họ không thiếu tiền, có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới? Chắc hẳn phải có những nguyên nhân nằm ở tầng sâu nền văn hoá truyền thống. Giải Nobel Khoa học chủ yếu vinh danh các thành tựu nghiên cứu cơ bản mà các thành tựu đó phải ươm mầm trên mảnh đất có nền tảng khoa học lâu đời.
Lời giải đáp gây chấn động dư luận
Ngày 3/9/2004 nhà khoa học người Hoa chủ nhân giải Nobel Vật lý 1957 Dương Chấn Ninh[2]đọc tại “Diễn đàn đỉnh cao văn hóa 2004” ở Bắc Kinh bản báo cáo “Ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với văn hóa Trung Quốc”. Báo cáo này được truyền thông đăng tải dưới tiêu đề kích động “Dương Chấn Ninh nổ súng vào Kinh Dịch” đã gây ồn ào trong dư luận.
Để giải đáp câu hỏi vì sao khoa học cận đại không nảy sinh ở Trung Quốc, Dương Chấn Ninh tóm tắt nội dung những người đi trước đã bàn luận thành 5 lý lẽ giải thích:
1) Văn hóa Trung Quốc có truyền thống nhập thế [gánh vác việc đời, can dự vào việc thế gian; là quan điểm của Nho giáo] chứ không xuất thế [lánh đời, không tham gia việc thế gian; như quan điểm ở ẩn, đi tu của đạo Phật]; tức chỉ trọng thực tế mà coi nhẹ lý luận trừu tượng.
2) Chế độ khoa cử (dùng thi cử để tuyển chọn quan chức).
3) Không coi trọng kỹ thuật.
4) Tư duy truyền thống của Trung Quốc không có phương pháp suy diễn.
5) Văn hoá truyền thống Trung Quốc áp dụng quan niệm triết học thiên nhân hợp nhất.
Theo ông, hai lý lẽ sau cùng có liên quan chặt chẽ với Kinh Dịch. Kinh điển này đã ảnh hưởng tới phương thức tư duy của văn hóa Trung Quốc, ảnh hưởng đó là một trong các nguyên nhân quan trọng làm cho khoa học cận đại không nảy mầm tại nước này.
Suy diễn và quy nạp là hai phương pháp tư duy không thể thiếu trong khoa học cận đại. Quy nạp là sự suy lý từ tiền đề cụ thể chuyển tiếp tới kết luận có tính khái quát. Nó có chức năng khái quát tình hình chung và suy đoán kết quả trong tương lai, kết luận của nó đều vượt quá phạm vi của tiền đề. Ngược lại, suy diễn (hoặc diễn dịch) là sự suy lý từ tiền đề có tính chung chung chuyển tiếp tới kết luận cụ thể; kết luận của nó không vượt quá phạm vi của tiền đề.
Khoa học cận đại phát triển được là nhờ đã kết hợp hai phương pháp này, ví dụ phương trình Maxwell. Quy nạp là tinh thần xuyên suốt Kinh Dịch; bởi thế văn hóa truyền thống Trung Quốc chỉ có phép quy nạp mà không có phép suy diễn, đồng thời cũng không chú ý logic và trình tự thuyết lý, mà đòi hỏi người đọc tự hiểu ra kết luận cuối cùng.
Quan niệm triết học Thiên nhân hợp nhất bắt nguồn từ Kinh Dịch: mỗi quẻ đều bao hàm đạo trời, đạo đất và đạo người; coi quy luật của trời và quy luật của người là một; trong khi đó khoa học cận đại đòi hỏi phải thừa nhận thế gian người có quy luật và các hiện tượng phức tạp riêng, khác với “Trời” (giới tự nhiên); hai chuyện ấy không thể hợp làm một như quan điểm của Kinh Dịch.
Kinh Dịch được coi là Quốc bảo, là Sách Trời, là suối nguồn của nền văn minh Trung Hoa. Nhiều người Hoa cho rằng toàn bộ các khám phá khoa học hiện có và chưa có đều đã được viết sẵn trong Kinh Dịch, chỉ đợi phát hiện; vì thế dựa vào kinh điển này Trung Quốc sẽ bá chủ thế giới!
Thế mà giờ đây Dương Chấn Ninh cho rằng vì tư tưởng và phương pháp của Kinh Dịch hoàn toàn xa lạ với khoa học nên khoa học cận đại không ra đời tại Trung Quốc.
Ông phát biểu: Có nhiều người Trung Quốc đi đâu cũng nói bừa, hoặc bảo trong Kinh Dịch có hạt giống của khoa học cận đại, hoặc bảo Kinh Dịch dẫn đường cho khoa học phát triển. Những thói mê tín truyền thống có vô vàn mối liên hệ với Kinh Dịch như phong thủy, bói toán, cảm ứng trời người, vu thuật … trong khi được dựng lên từ đống tro tàn lại còn khoác cái áo khoa học; có người nói đấy là những “khoa học mới”, “khoa học tiềm ẩn”, nói Kinh Dịch là trước tác khoa học đi trước thời gian, chứa nhiều phát kiến khoa học lớn như cơ học lượng tử, thuyết tương đối, lý thuyết máy tính, mật mã di truyền v.v… Có người muốn dùng Kinh Dịch để chỉ đạo nghiên cứu khoa học, để dự báo khí tượng, để đề xuất “mô hình nguyên tử thái cực”, suy ra “hệ mặt trời có 14 đại hành tinh” v.v…
Quan điểm của Dương Chấn Ninh cũng giống ý kiến của Einstein và một số nhà khoa học Trung Quốc trước đây, nhưng ông đi sâu quy kết vào ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với phương thức tư duy của người Trung Quốc.
Dương Chấn Ninh nhấn mạnh ông không hề công kích triết học truyền thống Trung Quốc; ông nói nội hàm của thiên nhân hợp nhất không chỉ có nội ngoại nhất lý [nội: sự việc của đời người; ngoại: sự việc của thiên nhiên; nhất lý: quy nạp hai cái này làm một thể] mà còn có cái quan trọng hơn, là thiên nhân hòa hài [trời người hài hòa], một yếu tố có ảnh hưởng cực kỳ lớn tới tư duy truyền thống và xã hội Trung Quốc, quan trọng hơn cả việc khoa học cận đại không xuất hiện tại nước này. Nhất là gần đây Đảng Cộng sản Trung Quốc đề cao xã hội hài hòa, coi là một yếu tố để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
Tranh cãi
Một số nhà Quốc học, Dịch Học Trung Quốc nhận định bản báo cáo của Dương Chấn Ninh đã “nổ súng” vào Kinh Dịch, như vậy ông đã trở thành kẻ “ly kinh phán đạo” [xa rời đạo lý truyền thống]. Họ xúm vào phê phán thậm chí thóa mạ ông, chủ yếu chê ông không hiểu Kinh Dịch mà làm ra vẻ hiểu, nói toàn những lời ngoại đạo. Có người còn moi móc chuyện ngày xưa ông vào quốc tịch Mỹ, chuyện ông 82 tuổi lấy vợ 28 tuổi… để chê ông không yêu nước, không đứng đắn – cho dù trước đây khi ông về giúp Trung Quốc phát triển KHKT họ hết lời ca ngợi ông là nhà yêu nước, là Einstein của Trung Quốc.
Nhà Dịch học nổi tiếng Lưu Đại Quân nói báo cáo của Dương Chấn Ninh “có rất nhiều sai lầm thường thức” và nêu ví dụ: “Kinh Dịch là bộ sách bói toán sớm nhất mà phương pháp bói toán thì dựa vào sự suy diễn, cử nhất phản tam [nêu một suy ra ba], sao có thể nói là không có phương pháp suy diễn? Ngoài ra, Kinh Dịch là cuốn sách có giá trị phổ quát toàn thế giới; từ góc độ ấy có thể thấy đây cũng là một sự suy diễn nghĩa rộng.”
Phái đối lập nhận xét các phê phán kể trên thiếu cơ sở lý luận. Theo nhà khoa học Phương Châu Tử thì phép suy diễn Dương Chấn Ninh nói là sự suy lý logic, từ một số mệnh đề chung chung đã thành lập mà suy ra các kết luận đặc biệt, thí dụ trong hình học Euclid, từ tiên đề đi tới định lý sau đó đến chứng minh; nó hoàn toàn khác với cách suy diễn của bói toán trong Kinh Dịch mà Lưu Đại Quân nói. Phương Châu Tử nhận xét: Cũng như Einstein, Dương Chấn Ninh coi hệ thống logic hình thức là một trong những suối nguồn của khoa học cận đại và cho rằngTrung Quốc thiếu cái nguồn gốc đó.
Trên thực tế, văn hóa truyền thống Trung Quốc chẳng những thiếu phép suy diễn chặt chẽ hợp logic mà cũng thiếu cả phép quy nạp chặt chẽ hợp logic. Dương Chấn Ninh cho rằng trong Kinh Dịch, cái gọi là phép quy nạp của “thủ tượng bỉ loại [lấy hình so loại]”, “quan vật thủ tượng [xem vật lấy hình]” thực ra là phép loại suy không hợp logic dưới sự chỉ đạo của quan niệm thần bí “thiên nhân hợp nhất”.
Chẳng hạn: “Khô dương sinh hoa, lão phu đắc kỳ nữ thê, vô bất lợi “ [cây dương khô héo nhú mầm, ông già lấy cô gái đáng tuổi con làm vợ thì không có gì bất lợi]; “Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sĩ phu, vô cữu vô dự” [cây dương khô héo nhú mầm, bà già lấy chàng trai khỏe mạnh, chẳng có hại cũng chẳng đáng khen]. Giữa các sự việc “khô dương sinh hoa” với “lão phu đắc kỳ nữ thê” hoặc với “lão phụ đắc kỳ sĩ phu” , tức giữa đạo trời với đạo người chỉ có tính tương tự mơ hồ mà không tồn tại mối quan hệ tất nhiên hợp logic; từ đó quy nạp được kết luận “vô bất lợi”, “vô cữu vô dự” lại càng không thể đứng vững. Kiểu “suy diễn” như vậy chẳng qua là sự phản ánh quan niệm xã hội nam tôn nữ ty hoặc có chút lý lẽ về sinh lý, thế nhưng không có liên can gì tới suy lý logic.
Dương Chấn Ninh biện luận
Dương Chấn Ninh phản đối việc giới báo chí nói ông “nổ súng” vào Kinh Dịch và thanh minh: 80% nội dung bản báo cáo trên là ca ngợi mặt tích cực, 20% nói về mặt tiêu cực của Kinh Dịch, nhưng thiên hạ lại chỉ nhìn vào 20% ấy. Vì sao Trung Quốc ngày xưa từng có đóng góp rất lớn về KHKT, thế mà khoa học cận đại lại không thể nảy mầm ở Trung Quốc? “Tôi suy nghĩ và nhìn thấy một lý lẽ người khác trước đây ít để ý. Đó là Trung Quốc không có phương pháp suy diễn”, ông nói.
Kể từ Kinh Dịch trở đi, người Trung Quốc đã không còn dùng phương pháp suy diễn nữa; chưa kể phương pháp của Kinh Dịch ngược với phương pháp suy diễn, do đó nó làm cho người Trung Quốc coi quy nạp là phương pháp tư duy duy nhất. Nếu nói tôi có một quan điểm cách mạng nào, thì đó là tôi đã vạch ra vết thương chí mạng ấy. Cho nên người ta không thích… Phương Tây có thái độ đối với học thuật khác với Trung Quốc: chúng ta quá tôn sư trọng đạo. Tiền nhân nói gì, Khổng Tử, Mạnh Tử nói gì thì không được bình luận mà phải coi là tuyệt đối đúng. Lời thầy giáo cũng thế. Thái độ ấy quá ư thâm căn cố đế.
Tạm kết
Có thể thấy phần lớn lời bàn xung quanh vấn đề nêu trên đều quy kết về phương pháp tư duy, cho rằng người Trung Quốc mạnh về tư duy trực giác, yếu về tư duy logic. Suy diễn Dương Chấn Ninh nói là phương pháp tư duy có tính logic, đòi hỏi phải từ hiện tượng quan sát thấy mà phân tích, giải thích, suy diễn, lập luận, tìm ra quy luật chung. Các kinh điển của văn hóa truyền thống Trung Quốc thường đưa ra những lập luận coi như chân lý mà không hề giải thích, người ta chỉ biết học thuộc lòng, không được nghi ngờ. Mọi khái niệm trong sách của các thánh hiền đều mơ hồ, không có định nghĩa rõ ràng, chính xác, có thể hiểu theo nhiều cách, dễ gây hiểu lầm. Cách tư duy phi logic như vậy không thể sinh ra khoa học.
Xã hội phương Tây khuyến khích nghi ngờ mọi lý thuyết đã có. Sinh viên Mỹ phải học rất nhiều học thuyết, kể cả chủ nghĩa Marx, nhưng nhà trường không khẳng định học thuyết nào duy nhất đúng. Bởi lẽ nếu đã tìm ra chân lý rồi thì còn cần gì sáng tạo học thuyết mới nữa? Nói cách khác, tình trạng nhất nguyên hoá trong hoạt động khoa học xã hội nhân văn và KHKT chính là căn nguyên sâu xa dẫn đến sự trì trệ của trí tuệ phương Đông. Chỉ có đa nguyên hoá mới làm cho các lĩnh vực nói trên luôn phát triển không ngừng.
Việc nhà khoa học có uy tín lớn Dương Chấn Ninh dũng cảm phê phán Kinh Dịch đã khiến người Trung Quốc nhận thấy cần xem xét lại quan điểm đối với các kinh điển văn hóa truyền thống. Trong cuốn “Tái suy ngẫm văn hóa truyền thống Trung Quốc” (xuất bản 2009) Tiêu Kiện Sinh viết: Tuy đã trải qua mấy chục năm cải cách mở cửa, người Trung Quốc vẫn chưa có được nhận thức tỉnh táo về lịch sử nền văn minh của mình, chưa làm rõ đâu là tiên tiến, văn minh, đâu là lạc hậu, dã man. Đây chính là nguyên nhân sâu xa khiến Trung Quốc lúng túng trên bước đường phát triển KHKT.
Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa truyền thống Trung Hoa, vì thế lẽ tự nhiên chúng ta quan tâm tới việc người Trung Quốc đánh giá, kế thừa và phát huy nền văn hóa truyền thống của họ ra sao; qua đó có thể thấy được do đâu chúng ta cũng lạc hậu mãi về KHKT. Cơn sốt Kinh Dịch của người TQ những năm 1990 đã hạ nhiệt từ lâu nhưng hiện nay một số người Việt vẫn coi Kinh Dịch là Sách Trời, có thể tiên đoán chính xác mọi điều; thậm chí còn nói người Việt Nam là tác giả của Kinh Dịch! Đáng tiếc là vấn đề này dường như chưa được dư luận ta quan tâm đúng mức và hăng hái bàn thảo.
Chú thích:
[2] Dương Chấn Ninh (1922-) 1946 du học Mỹ. 1948 tiến sĩ ĐH Chicago, ở lại Mỹ nghiên cứu khoa học. 1957 cùng Lý Chính Đạo nhận giải Nobel vật lý. Là nhà khoa học Mỹ gốc Hoa đầu tiên về thăm TQ từ 1971, nhiều lần giảng dạy và chủ yếu giúp đưa người TQ sang Mỹ học tập. 1994 được Viện Khoa học TQ bầu làm viện sĩ quốc tịch nước ngoài; 1998 được ĐH Thanh Hoa tặng danh hiệu Giáo sư danh dự. Sau khi vợ chết, cuối 2003 về TQ định cư, giảng dạy tại ĐH Thanh Hoa, tặng trường này 10 triệu USD, và lấy vợ 28 tuổi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét