Những người Việt Nam có cơ duyên
đến với kinh đô Paris thời nay hẳn sẽ không khỏi bùi ngùi, xúc động khi
đọc lại những dòng nhật ký của cụ Phạm Quỳnh trong 3 tháng sống tại
Paris vào năm 1922. Sau ngót gần thế kỷ, dường như vẫn có thể lần theo
những dòng nhật ký cũ xưa ấy mà khám phá Paris hôm nay; nhưng người thì
đã thành thiên cổ.
Phạm Quỳnh (1892 – 1945), hiệu Thượng
Chi, là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn.
Ông từng là chủ bút của Nam Phong tạp chí và giữ chức Thượng thư bộ
Học, Thượng thư bộ Lại trong chính quyền Bảo Đại.
Đã có một thời, Phạm Quỳnh bị chỉ trích
vì thái độ thân Pháp và sự hợp tác với chính quyền thực dân Pháp; nhưng
rồi lịch sử đã dần dần trả lại thanh danh cho ông. Trong báo cáo ngày
mồng 8 tháng 1 năm 1945 gửi cho đô đốc Decoux và cho Tổng đại diện
Mordant, Thống sứ Trung Kỳ Healewyn đã báo cáo về Phạm Quỳnh như sau:
“Vị Thượng thư này vốn đã chiến đấu suốt
cuộc đời mình bằng ngòi bút và bằng lời nói, không bao giờ bằng vũ khí
chống sự bảo trợ của Pháp và cho việc khôi phục quyền hành của Triều
đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung Nam) và cho việc người Việt Nam nắm
trong tay vận mệnh của chính mình… Những yêu sách của Phạm Quỳnh đòi trở
lại việc chấp thuận một chế độ tự trị hoàn toàn cho hai xứ bảo hộ
(Trung Kỳ và Bắc Kỳ) khước từ chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ và thành lập một
quốc gia Việt Nam. Tôi xin lưu ý ngài một điều là, dưới vẻ bề ngoài nhã
nhặn và thận trọng, con người đó là một chiến sĩ không lay chuyển nổi
cho nền độc lập của Việt Nam và đừng hòng có thể làm dịu những tình cảm
yêu nước chân thành và kiên định của ông ta bằng cách bổ nhiệm ông ta
vào một cương vị danh dự hoặc trả lương một cách hậu hĩ. Cho tới nay đó
là một địch thủ thận trọng nhưng cương quyết chống lại sự đô hộ của nước
Pháp và ông ta có thể sớm trở thành một kẻ thù không khoan nhượng…”.
Năm 1919, Phạm Quỳnh sáng lập và là Tổng
Thư ký Hội Khai trí Tiến Đức. Năm 1922, với tư cách đại diện cho Hội
Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp dự Hội chợ triển lãm Marseille rồi
diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân lý Viện Hàn lâm Pháp về dân
tộc giáo dục. Chính chuyến đi này đã cho ra đời tác phẩm “Pháp du hành
trình nhật ký”.
Những trang nhật ký của Phạm Quỳnh không
chỉ phong phú thông tin như một chỉ dẫn du lịch, mà còn thấm đẫm tư
tưởng, tinh thần của một người trí thức Việt Nam giữa buổi giao thời;
trong khi khám phá, tận hưởng vẻ đẹp của xứ sở văn minh hoa lệ thì không
quên gửi gắm trăn trở, ước mong về tương lai của dân tộc.
Đại Kỷ Nguyên xin lược trích một đoạn
trong tác phẩm khi tác giả tham quan trường ENS (Ecole Normale
Supérieure), một trong những trường đại học danh giá và có truyền thống
lâu đời nhất nước Pháp. Ngày nay, một số sinh viên Việt Nam đã có cơ
hội được học tập và nghiên cứu tại ENS, đó cũng là ước mơ, khát vọng
thuở nào của nhà văn hoá Phạm Quỳnh.
***
“Cả ngày hôm qua xem điện Panthéon
là nhà kỷ niệm các danh nhân nước Pháp. Ở trọ đi ra gần
lắm, cách có vài phố. Đi qua con đường d’Ulm, thấy trường Cao
đẳng sư phạm (Ecole Normale Supérieure), trong bọn học sinh
thường gọi tắt là “cái nhà đường d’Ulm” (la maison d’Ulm), nhà
cũng thường thôi, không lấy gì làm to lớn đẹp đẽ lắm,
nhưng có cái vẻ nghiêm trang bình tĩnh, thật là một nơi học
hành cao thượng.
Chung quanh có vườn, cây cao bóng
mát, dưới gốc cây có ghế đá, dưới bóng cây khoác tay thơ
thẩn dăm mươi thày học sinh, người thời vừa đi vừa nói, ra
dáng hăng hái nghị luận; người thời tay để dưới cằm, ra bộ
nghĩ ngợi xa xôi; người thời con mắt đăm đăm, ra tuồng mơ
màng tưởng vọng. Nhìn nét mặt các người sinh viên đó, như
có cái hào quang của sự học, trong lòng cảm phục cái chí cao
của kẻ thanh niên nước Pháp, mà lại bùi ngùi cho cái công
học hành dở dang của mình.
Than ôi! Mình không phải là không
có cái lửa nhiệt thành về sự học, nhưng mà sinh trưởng vào
giữa buổi thanh hoàng [1] học không ra gì cả, Nho đã chẳng ra
Nho, mà Tây cũng chẳng thành Tây. Phàm sự học phải cho đến
nơi đến chốn thì sở học sở hành mới điều hoà dung hợp nhau,
mà gây nên cái nhân cách thanh cao. Hễ còn dở dang, còn nửa
chừng, thì không ra con người gì cả. Ông cha mình mấy mươi
đời học Nho, nghiệp nhà đến mình là đoạn tuyệt. Bây giờ muốn
cầu làm ông đồ cổ, bàn nghĩa tính lý, ngâm thơ nhà Đường,
nhắp dăm ba chén chếnh choáng cho tiêu sầu khiển hứng, bảo
mươi lăm thằng trò chẹt biết dã, giả, chi, hồ, an nhàn vô
sự, ngày tháng vui qua, cũng không được nữa.
Nói đến học Tây, thì chẳng qua
học mấy câu tiếng Tây để đi làm thuê, cũng tự biết còn
thiếu thốn, muốn ra công học thêm, nhưng thày đâu sách đâu,
ở trường thông ngôn ra, được học mấy ông hương sư ở Tây
sang, thế đã là tột phẩm rồi, nào đã bao giờ được từng ngồi
qua cái ghế một trường Đại học như trường Sư phạm này? Mà
đã không được học đến bậc đó, thì còn mong lập nên sự
nghiệp gì về đường học vấn? Dở dang, dở dang, thôi mình đã
đành là một con người dở dang! Mà cả nước mình cũng là một
nước dở dang! …
Mỗi lần đi qua những nhà học
nghiêm trang như chốn này, trông thấy những học trò anh tuấn,
giáo sư đạo mạo, người nào trong con mắt cũng hình như mơ
màng những sự cao xa, mà “thèm” người ta biết nhường nào!
Tưởng giá phải ăn bánh hẩm, uống nước lã, mà được làm
một người trong những người tha thẩn dưới bóng cây, thấp
thoáng trong rào sắt nọ, cũng cam tâm. Nhưng mà thôi, đã sinh
vào buổi lỡ làng thì cũng phải chịu cái phận hẩm hiu vậy,
biết sao bây giờ?
Duy phải biết rằng học đã chẳng ra
gì, thời làm cũng chẳng nên chi, vì có gốc mới có lời, vốn
ít mong sao được lời to? Cho nên cũng chớ có mong mỏi những
sự to tát quá sức không làm nổi; chỉ nên hinh hương chúc
vọng [2] cho kẻ đến sau này họa được may mắn hơn mình chăng…”
…
Ngọc Hà (CM.Văn Hóa daikynguyen)
Chú thích:
[1] Tức buổi giao thời, cái cũ chưa đi, cái mới chưa tới.
[2] Đốt hương lên mà mong mỏi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét