Nguồn: Cody J. Foster, “Did America Commit War Crimes in Vietnam?”, The New York Times, 01/12/2017.
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Hình: Simone de Beauvoir và Jean-Paul Sartre (ở giữa)
tham gia một phiên tòa xác định rằng Mỹ đã vi phạm nhân quyền và luật
pháp quốc tế ở Việt Nam.
Ngày 01/12/1967, ngày cuối cùng trong phiên xét xử thứ hai của Tòa án
Tội ác Chiến tranh Quốc tế, các nhà hoạt động chống chiến tranh từ khắp
nơi trên thế giới đã tập trung tại Roskilde, Đan Mạch. Ban bồi thẩm –
còn được gọi là Tòa án Russell theo tên người sáng lập, nhà triết học
Bertrand Russell – đã dành một năm để điều tra hành động can thiệp của
quân đội Mỹ ở Đông Nam Á và lúc này đã sẵn sàng công bố phát hiện của
mình. Các thành viên của phiên tòa nhất trí cho rằng Mỹ “có tội trong
mọi cáo buộc, bao gồm diệt chủng, sử dụng vũ khí bị cấm, ngược đãi và
giết tù nhân, di chuyển tù nhân một cách bạo lực” tại Việt Nam, cũng như
các nước láng giềng Lào và Campuchia.
Russell thường tuyên bố rằng mình đã được truyền cảm hứng từ Tòa án
Nuremberg. Nhưng Tòa án Russell không phải là một cơ quan chính phủ hay
tổ chức hiệp ước; nó không có thẩm quyền pháp lý cũng như phương tiện để
thực thi công lý sau những phát hiện của mình. Nhiệm vụ của nó là nâng
cao nhận thức về tác động của chiến tranh đối với thường dân Việt Nam.
“Tòa án Nuremberg đã yêu cầu và bảo đảm việc trừng phạt các cá nhân,”
Russell tuyên bố trong các phiên xét xử. “Còn Tòa án Tội ác Chiến tranh
Quốc tế kêu gọi các dân tộc trên thế giới, quần chúng, hành động để ngăn
chặn tội ác.”
Nhà triết học Jean-Paul Sartre đã chủ tọa các phiên tòa và giúp thu
hút 23 học giả, nhà khoa học, luật sư, cựu nguyên thủ quốc gia và các
nhà hoạt động hòa bình được quốc tế công nhận, những người mà ý thức đạo
đức đã khiến họ nhận lời mời tham dự. Xuyên suốt hai phiên tòa riêng
biệt, từ ngày 02 đến ngày 10 tháng 05/1967 tại Stockholm, và từ ngày
20/11 đến 01/12/1967 tại Roskilde, các thành viên đã cân nhắc, xem xét
các bằng chứng mà mỗi người tự thu thập trong những chuyến đi thực tế
đến Việt Nam trong khoảng thời gian giữa hai phiên tòa.
Các chuyến đi này cho phép các thành viên ban bồi thẩm đánh giá thiệt
hại mà cuộc chiến đã gây ra cho dân thường và trực tiếp xác minh những
tuyên bố họ được nghe trong phiên tòa đầu tiên. Trong một chuyến đi kiểu
này, nhà hoạt động xã hội Lawrence Daly, nhà báo Tariq Ali và nhà văn
Carol Brightman, đã mang về bằng chứng không thể chối cãi rằng Không
quân Hoa Kỳ đã cố tình ném bom các cơ sở và hạ tầng dân sự, bao gồm bệnh
viện, trường học, nhà thờ và làng mạc.
Các thành viên khác, khi đến vùng nông thôn, đã gặp được nhiều dân
thường đồng ý tới Đan Mạch để phát biểu trước phiên tòa thứ hai. Nhân
chứng đầu tiên, một nông dân Việt Nam 37 tuổi, đã phơi bày phần thân thể
cháy sém của mình trước bồi thẩm đoàn, và giải thích, thông qua một
phiên dịch viên, rằng một chiếc máy bay Mỹ đã thả bom cháy xuống khu
ruộng của gia đình anh ở Quảng Nam khi anh đang cày ruộng.
Anh không chỉ có một mình. Nạn nhân này tiếp nối nạn nhân kia, tất cả
đều mô tả cách các “thẩm vấn viên” Mỹ càn quét khắp làng, tìm kiếm kẻ
thù và tra tấn thường dân để lấy thông tin. Một cựu thẩm vấn viên người
Mỹ, Peter Martinsen, đã xác nhận với tòa án rằng Trường Tình báo Quân
đội đã dạy họ các chiến lược thẩm vấn vi phạm Công ước Geneva. “Thẩm vấn
viên cũng tham gia tra tấn thực tế,” ông nói, trước khi thú nhận rằng
những phương pháp đó đôi khi dẫn đến cái chết của tù binh chiến tranh
Việt Nam. Sau đó, vào năm 1970, các thẩm vấn viên và thường dân Việt Nam
khác đã xác nhận rằng họ đã bị nhấn chìm trong nước, bị sốc điện và bị
đốt. Một số thậm chí còn tiết lộ bị tấn công tình dục thông qua việc đưa
rắn và gậy vào cơ thể. “Thật kinh khủng khi nhớ lại một cuộc thẩm vấn
mà bạn phải đánh đối phương để lấy lời khai, sau đó đánh anh ta vì tức
giận, cuối cùng bạn đánh anh ta chỉ để thỏa mãn sự hưng phấn,” Martinsen
nói thêm.
Những lời khai này cũng tiết lộ rằng Mỹ đã di dời dân thường một cách
thô bạo để cô lập kẻ thù. Ví dụ, chương trình ấp chiến lược đã buộc một
số lượng lớn người dân vào sống trong các ấp/huyện được cách ly, nhằm
bình định làng mạc và ngăn chặn cộng sản xâm nhập nông thôn. Các nhân
chứng cũng khai rằng lính Mỹ đã sát hại bất kỳ ai dám kháng cự và thiêu
rụi các ngôi làng khi họ di dời dân thường Việt Nam. Máy bay ném bom và
pháo binh của Mỹ sau đó sẽ được thống báo làng đã “trống” để có thể
thoải mái bắn phá trước khi bao phủ toàn bộ khu vực bằng chất độc màu da
cam. Chiến thuật kiểu này đã xóa bỏ vô số sinh kế; những người sống sót
chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc từ bỏ hy vọng và đưa gia đình
của họ vào sống trong các ấp được chuẩn bị sẵn.
Các thành viên của Toà án Russell cũng lo lắng không kém về việc quân
đội sử dụng vũ khí tối tân trong các khu vực dân thường. Một quả bom
đặc biệt đã khiến họ chú ý, bởi thiết kế của nó chỉ nhằm mục đích gây
thương vong hàng loạt. Chuyên gia vũ khí Jean-Pierre Vigier thuộc Đại
học Paris, đã làm chứng trước tòa rằng cái gọi là bom ổi (guava
bomb) – một loại bom chùm – có thể bắn ra 300 viên bi sắt theo mọi
hướng khi nổ. Loại bom này ít gây thiệt hại cho bê tông và thép, ông
nói; thay vào đó, nó như thể được tạo ra để xé rách da thịt người. “Kết
luận duy nhất của tôi là việc đánh bom dân thường là một chính sách có
chủ ý của Lầu Năm Góc, có lẽ với hy vọng khiến họ gây áp lực buộc chính
phủ phải đầu hàng,” Daly đã kết luận sau khi nghe các lời chứng.
Chỉ trong một thời gian ngắn, những phát hiện của Tòa án Russell đã
giúp tiếp thêm sinh lực cho phong trào phản chiến toàn cầu nhằm gây áp
lực buộc chính quyền Johnson kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Bị ảnh hưởng
bởi những gì họ chứng kiến ở Việt Nam trong thời gian giữa hai phiên
xét xử, hai thành viên của ban bồi thẩm, nhà hoạt động chống chiến tranh
Dave Dellinger và nhà văn Carl Oglesby, đã cộng tác với các nhà hoạt
động phản chiến khác để lên kế hoạch biểu tình hòa bình trên khắp thế
giới vào tháng 10/1967. Tháng đó, hàng ngàn người biểu tình chống chiến
tranh đã đối đầu với quân đội bên ngoài Lầu Năm Góc và trước các đại sứ
quán Mỹ trên khắp Tây Âu, Trung và Nam Mỹ, cũng như khắp châu Á. Chiến
dịch Giải trừ Vũ khí Hạt nhân của Russell và Hội đồng Hòa bình Anh tại
Việt Nam đã tổ chức các cuộc biểu tình ở Washington và bên ngoài số 10
phố Downing ở London. Chiến dịch Đoàn kết với Việt Nam, một tổ chức khác
do Russell tài trợ, đã hợp tác với Tariq Ali để tổ chức tuần hành ở
Quảng trường Trafalgar song song với việc biểu tình trước đại sứ quán
Úc, New Zealand và Mỹ.
Tòa án Russell và các cuộc tuần hành đã không làm kết thúc chiến
tranh, nhưng vẫn giúp thúc đẩy sự phản đối quốc tế đối với chủ nghĩa
thực dân và chủ nghĩa đế quốc: chẳng hạn, những người theo chủ nghĩa dân
tộc Puerto Rico, đang tìm cách giải phóng đất nước của họ khỏi chủ
nghĩa đế quốc Mỹ, coi người Việt là đồng minh tinh thần, ngay cả khi
người Puerto Rico buộc phải đi nghĩa vụ quân sự để chiến đấu nhân danh
Mỹ tại Việt Nam.
Tòa án cũng gây được tiếng vang ở Mỹ. Stokely Carmichael, một thành
viên của ban bồi thẩm, và các nhà lãnh đạo người da đen trẻ tuổi khác đã
tham gia cùng các nhà cách mạng này khi nhận định tội ác chiến tranh
của Mỹ ở Việt Nam chỉ là một sản phẩm khác của bản chất áp bức chủng tộc
của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Họ lập luận rằng cộng đồng người Mỹ gốc Phi
tồn tại như một thuộc địa trong lòng nước Mỹ bị chi phối bởi hận thù
chủng tộc và bạo lực.
Tội ác chiến tranh được phát hiện bởi Tòa án Russell, cùng với các
chi tiết về Thảm sát Mỹ Lai sau đó, đã hạ thấp uy tín của Mỹ ở nước
ngoài và gây ra một cuộc khủng hoảng bản sắc quốc gia ở trong nước.
Những phát hiện này đã buộc các công dân Mỹ phải thừa nhận cách tiếp cận
“giết bất cứ thứ gì di chuyển” của quân đội Mỹ trong Chiến tranh Việt
Nam. Thế nhưng những sự thừa nhận ấy chẳng tồn tại được lâu; thực tế tội
ác của Mỹ ở Việt Nam đã bị che đậy bởi các tổng thống, chính trị gia và
nhiều nhà lãnh đạo khác đang tìm cách hàn gắn đất nước – ngay cả khi
điều đó có nghĩa là phớt lờ lịch sử – nhằm thúc đẩy một thứ chủ nghĩa
dân tộc ái quốc mới. Những khẩu hiệu tập đoàn được chính phủ ủng hộ như
Chiến dịch “The Pride Is Back” (Niềm tự hào đã quay trở lại) hồi thập
niên 1980 đã thao túng ký ức tập thể bằng cách làm ngơ các tội ác chiến
tranh và vi phạm nhân quyền mà Tòa án Russell đã giúp vạch trần.
Di sản quan trọng nhất của Tòa án Russell là sự xuất hiện của những
“tòa án nhân dân” (people’s tribunals) rất lâu sau khi Chiến tranh Việt
Nam kết thúc. Các tòa án nhân dân, cũng được gọi là các “Tòa án
Russell”, đã điều tra các chế độ độc tài ở Thế giới Thứ ba, đảo chính
Chile năm 1973, xung đột giữa Israel và Palestine và cuộc xung đột ở
Đông Ukraine. Gần đây nhất, Tòa án Thế giới về Iraq đã được mở năm 2003
để buộc tội Mỹ về các tội ác chiến tranh và sự vi phạm Công ước Geneva.
Một lần nữa phiên tòa buộc thế giới phải lắng nghe những câu chuyện mới
về ném bom dân thường và các chiến thuật tra tấn mới của lực lượng vũ
trang Mỹ.
Hy vọng của Russell là các phiên tòa của ông sẽ tạo ra động lực hướng
tới một phong trào hòa bình quốc tế lấy người dân làm trung tâm, một
phong trào đã làm được nhiều hơn ngoài các cuộc biểu tình. Ông cho rằng,
nhân dân – nếu được tổ chức và huy động đúng cách – có thể kiểm soát
được các chính phủ. Đó là một ý tưởng cấp bách ở thời điểm năm 1967 và
ngày nay cũng thế.
Cody J. Foster là nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành lịch sử tại Đại học Kentucky.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét