Là một trong những bài hát thiếu nhi “quốc dân” mà hầu hết đứa trẻ con nào cũng thuộc, Bắc Kim Thang đã để lại một tuổi thơ hồn nhiên và trong sáng cho biết bao thế hệ người Việt. Thế nhưng, nhiều giả thiết cho rằng sự thật đằng sau những câu hát ngây thơ ấy lại là một câu chuyện kinh dị.
Thời gian qua, mạng xã hội Việt Nam liên tiếp dậy sóng vì bộ phim Bắc Kim Thang. Nhiều ý kiến cho rằng bộ phim kinh dị “made in Vietnam” này
sẽ ‘phá nát’ tuổi thơ với câu slogan rùng rợn: ‘Tháng 10 này đừng nghe
Bắc Kim Thang’. Điều này đã đặt một dấu chấm hỏi về ý nghĩa thực sự của
bài hát Bắc Kim Thang. Liệu bài đồng dao thiếu nhi này có ‘trong sáng’
như bạn nghĩ?
Nhiều giả thuyết giải thích ý nghĩa bài hát Bắc Kim Thang
Có
giả thuyết đề cập bài hát Bắc Kim Thang mà ta biết vốn là bài hát mà
các em nhỏ Nam Bộ dùng để chơi trò khoèo chân, vừa chơi vừa hát.
Bên
cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng, bài hát Bắc Kim Thang có tên chính
xác là “Bắt Kim Than” (tức là Bắt con ngựa màu nâu sậm) – hay là giai
điệu vần vè nói về những chú ngựa mà thôi.
Và có vẻ như giả thuyết được nhiều người đồng ý nhất, cho rằng nó bắt nguồn từ một câu chuyện cổ tích cảm động ca ngợi tình cảm bạn bè thân thiết, giữa một anh bán dầu và một anh bán ếch.
Chuyện kể rằng:
“Ngày
xửa ngày xưa, ở một làng quê nọ, có hai người bạn làm nghề buôn bán
cùng nhau. Một người đi soi đèn bắt ếch về đêm, còn anh kia thì chuyên
đi bán dầu thắp đèn vào rạng sáng. Nhà họ dựng trên một cù lao nhỏ ven
sông, tách biệt với làng xóm, muốn đi vào chợ làng phải đi ngang một cây
cầu khỉ vắt vẻo.
Do
hoàn cảnh đơn chiếc, nên hai anh cũng thân thiết với nhau. Có lần vì mẹ
già của anh bán ếch bệnh mà không có tiền chạy chữa nên qua đời, anh
bán dầu liền bỏ tiền ra giúp đỡ ma chay mà không hề tính toán, vì thế mà
anh bắt ếch càng quý trọng tình bạn của anh bán dầu.
Một
đêm nọ, trong lúc đi làm việc, anh bắt ếch nghe tiếng kêu thảm thiết
phát ra từ một cái bẫy trên đồng. Tính tò mò, anh lại mở ra coi thì phát
hiện ra hai con chim le le và bìm bịp nằm trong bẫy, do chúng giành ăn
với nhau mới bất cẩn rơi vào bẫy của con người. Hai con chim ra sức năn
nỉ anh bắt ếch mở bẩy tha cho mình, rồi hứa sẽ đền ơn báo đáp. Vốn là
người có tính nhân từ, anh bắt ếch cũng xuôi lòng rồi giải thoát cho
chúng.
Vài
ngày sau, hai con chim cùng bay đến nhà anh bắt ếch để cảnh báo cho anh
biết tai ương sắp đến. Chúng nghe được hai con ma da ở sông bàn với
nhau rằng sẽ kéo chân anh bán dầu và anh bắt ếch, cho hai anh chết, thế
mạng cho chúng để chúng được đầu thai. Vì hai con ma này chết đã lâu,
nếu trong 7 ngày không bắt được người thay thế sẽ bị hồn phách tứ tán,
không được đầu thai nữa.
Thêm
vào đó, ma da cũng chỉ có thể bắt hai anh khi trời vừa rạng sáng, lúc
anh bán dầu ra chợ và lúc anh bắt ếch về nhà, bởi vì khi mặt trời lên
thì chúng không còn ma phép.
Ban
đầu anh bắt ếch đem cớ sự nói anh cho bán dầu nghe, khuyên anh nên ở
nhà, nghỉ bán một tuần lễ, nhưng anh bán dầu lại không tin, cho rằng đây
là mê tín vớ vẩn, trên đời không có ma quỷ.
Không
muốn bạn phải chết oan uổng, anh bắt ếch viện cớ đến ngày cúng mẹ, gọi
anh bán dầu qua nhà tiệc tùng ăn nhậu, chuốc cho anh say mèm đến mức
sáng hôm sau không ra chợ bán được. Ngày kia lại lấy cớ sang nhà cảm ơn
anh bán dầu đã giúp đỡ, lại bày tiệc ăn uống no say, trì hoãn việc đi
ngang cây cầu kia.
Hôm
ấy là ngày cuối cùng của thời hạn 7 ngày ma da bắt hồn, do say sỉn
nhiều ngày liền nên anh bắt ếch ngủ quên. Anh bán dầu sực tỉnh vào sáng
sớm, nhận ra mình đã bỏ buôn bán mấy ngày liền bèn nhanh chóng gánh hàng
ra chợ. Do bước vội vàng qua cầu khỉ cheo leo, lại bị bọn ma da biến
phép cho cầu trơn trượt nên sẩy chân rơi xuống nước mà chết.
Anh
bắt ếch vì tiếc thương bạn nhưng do còn sợ bọn ma da nên phải đợi hết
một ngày sau mới dám vớt xác bạn lên mà làm ma chay. Thấy ân nhân của
mình đau lòng, le le và bìm bịp cũng bay đến, cất tiếng kêu thảm thiết
như tiếng kèn trống đám ma để tiễn biệt một người chết oan.”
Sự thật ý nghĩa bài hát Bắc Kim Thang
Đọc hết truyện cổ tích này thì có lẽ mọi người đều sáng tỏ vì sao trong bài đồng dao Bắc Kim Thang có 4 câu cuối là:
Chú bán dầu, qua cầu mà té.
Chú bán ếch, ở lại làm chi.
Con le le đánh trống thổi kèn,
Con bìm bịp thổi tò tí te tò te.
Thực chất là để diễn tả lại câu chuyện đề cao tình bạn và tính chất cứu vật vật trả ơn của người xưa.
Vậy 2 câu đầu của bài hát thì sao?
Bắc kim thang, cà lang bí rợ
Cột qua kèo, là kèo qua cột.
Ở
câu đầu tiên, “cà, lang, bí rợ” là để chỉ cho 3 loại củ, quả có cùng
một đặc tính là thuộc họ dây leo, trái cà, khoai lang và bí rợ. Đặc biệt
với từ bí rợ, là một từ thuần chất của miền Nam, cũng đã nói lên xuất
xứ của bài đồng dao này là từ miền Tây Nam bộ.
Nói
đến ‘bắc kim thang’ thì phải hiểu hơi ‘hàn lâm’ một chút, là từ ‘kim
thang’ ở đây hiểu cho đúng phải là cái thang hình chữ KIM (金), tức là
hình tam giác cân. Từ “kim tự tháp” cũng là bắt nguồn từ chữ “kim” này
mà có, do chỉ hình dạng cái tháp của người Ai Cập cổ là hình tam giác
cân.
Còn
cái ‘kim thang’ của con nít ngày xưa là do người lớn dùng hai thanh tre
dài, bắt chéo vào nhau tạo thành một hình tam giác cân rồi cắm trên mặt
đất, cách vài mét lại đặt một cái như vậy, tạo thành một hàng dài. Bản
thân của cái kim thang này trở thành một cái cột (do không có cây cột
dựng đứng giữa nên hai thanh tre chéo vào trở thành cột luôn). Những cái
kim thang được nối vào nhau bởi cái “vì kèo”, là những thanh tre chạy
dọc theo giàn, cứ như thế tạo thành một giàn, để cho cà, lang, bí rợ leo
lên mà sinh sôi, phát triển.
Vậy
“cột qua kèo, kèo qua cột” là chỉ mối quan hệ gắn bó vào nhau của hai
vật thể. Cả câu “bắc kim thang, cà lang bí rợ, cột qua kèo, là kèo qua
cột” là để miêu tả mối quan hệ keo sơn, quấn quít, gắn bó vào nhau của
anh bán dầu và anh bán ếch ở bốn câu sau.
Cả
bài đồng dao này được viết lại dựa trên câu chuyện cổ tích kia, nên
cách lý giải cũng vì thế mà nên hiểu cho đúng. Tuy nhiên trải qua thời
gian dài, người lớn không còn kiên nhẫn để giải thích cho con trẻ hiểu
về truyện cổ tích kia, thế nên bài đồng dao Bắc Kim Thang cứ thế mà lưu
truyền, gây ra sự hoang mang, khó hiểu cho người nghe.
Viên Luân (t/h-tinhhoa.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét