Quá trình phát triển Khổng giáo từ
đời Hán cũng hơn 2.000 năm, với cả trăm, cả ngàn triết gia, thêm thắt
chế biến nhiều, tiêu cực có, tích cực cũng có. Tất cả đều được gom lại
và ấn… vào đầu Khổng Tử, gọi chung là Khổng giáo. Người ta không chịu
phân biệt Khổng giáo và Nho giáo, hay ít ra, giữa Khổng học và Nho học.
Tội thay cho phu tử!
Bạn
tôi, giám đốc một công ty tư nhân than thở: “Một nhân viên của tôi đã
qua 6 tháng thử việc, lại thêm 2 khoá huấn luyện mà tay nghề vẫn không
đáp ứng công việc, chỉ được cái hiền lành. Tôi định cho thôi việc. Vợ
cậu ta mới đẻ con đầu lòng. Cả tuần nay, giờ nghỉ trưa thì tạt vào siêu
thị mua vài thứ lẩm cẩm, khi thì khăn, lúc thì giấy, xế chiều lại chốc
chốc nhìn đồng hồ, mong hết giờ… Ðã mấy lần tôi định mời cậu ta vào
phòng thông báo quyết định, nhưng thấy bộ mặt hớn hở, tôi lại không
nỡ….”
Khi Hàn Quốc rơi vào cuộc khủng
hoảng kinh tế cuối năm 1997, thì những âm ỉ chống lại giá trị Khổng giáo
từ lâu được dịp bùng nổ. Luận điểm chủ yếu đó là, chính ý thức hệ Khổng
giáo đã đưa đến mô hình phát triển độc đoán, và rằng chính sự phụ thuộc
vào những giá trị tập thể, sự sùng bái đã bóp nghẹt đi tính sáng tạo cá
nhân. Những người chống đối kêu gọi, đã đến lúc phải đặt niềm tin vào
một trật tự hợp lý phương Tây, mà trong đó bao hàm thị trường tự do cạnh
tranh, chủ nghĩa cá nhân và nền tự do dân chủ.
Thực
ra, cái gọi là “giá trị châu Á”, đã từng được một số nhà nghiên cứu
phương Tây xem như là động lực hoá rồng ở một vài nước Châu Á, thì lại
bị chính một số học giả châu Á bài bác. Tiến sĩ Kim Kyong- Dong (Hàn
Quốc) khẳng định: “Kết quả hoá rồng là do đi theo khoa học, công nghệ và
quản lý phương Tây. Khổng giáo, dù có lý giải cách nào cũng không thể
là nguồn cảm hứng về mặt tinh thần cho sự phát triển”. Còn tiến sĩ Lee
Yuen Tshe (Ðài Loan) nhận xét hóm hỉnh: “Chính sự thành công của nên
kinh tế Ðông Á đã tạo ra tiếng tăm cho Khổng giáo”.
Khác
với quan điểm phương Tây là đề cao cá nhân và tự do cá nhân, Khổng giáo
nhắm đến xây dựng mối quan hệ giữa người và người: Quân – Thần, Phụ –
Tử, Phu – Phụ, Huynh – Ðệ, Bằng – Hữu (sách Trung Dung), gọi là Ngũ
Luân, theo một trật tự từ gia đình đến xã hội. Trật tự đó cũng có nghĩa
là tôn trọng quyền bính. Và cũng chính vì phục tùng sự trật tự này mà
Kim Kyong Il, giáo sư đại học Sanmyung (Seoul), kết luận: “Khổng giáo là
một ý thức hệ dành cho giai cấp thống trị, biện minh cho những phép tắc
độc đoán”.
Tôi có người bạn ở nước
ngoài, đi Mỹ từ hồi năm 75. Mới đây về nước kể chuyện, thằng con trai 17
tuổi của anh đi chơi suốt đêm, sáng bảnh mới mò về nhà. Bố hỏi đi đâu.
Thằng con không buồn trả lời, nhún vai bỏ vào phòng riêng.
Anh
bạn khác mới định cư ở Mỹ cùng với gia đình hồi năm 93 kể, cũng có ông
con chừng 16-17 tuổi gì đó, ham bè vui bạn đi chơi khuya. Sáng mò về,
ông bố sẵn đang cầm cây lau nhà trong tay, phang luôn cho vài cái. Thằng
nhỏ không dám tránh đòn, nhưng nép sát vào tường, khuất cửa sổ, mắt len
lén nhìn ra ngoài, trông chừng xem hàng xóm có nhìn thấy cái cảnh “gia
pháp” (roi) này không, lỡ có, thì ông bố nó có nguy cơ bị báo cảnh sát,
phải vào tù, bị phạt vạ vì tội ngược đãi trẻ em.
Tôi
không nghĩ vài cái “gia pháp” là bạo lực với trẻ con. Cũng không cho
rằng cái “len lén” của thằng ông mãnh đó là kết quả của một nền giáo dục
độc đoán, nhưng so với kiểu cách “nhún vai”, thì cái “len lén” dường
như đậm chất người, trong cái gọi là trật tự Phụ – Tử, quá hiếm hoi ở
một xứ sở văn minh như vậy.
Các công
ty Nhật học cách quản trị hiện đại của người Mỹ, nhưng đã đem về “xào
nấu” chung với mớ giáo điều Khổng giáo cả ngàn năm này thành đặc điểm
quản trị riêng của họ. Quản trị Nhật xem con người là yếu tố hàng đầu,
nhưng là con người trong mối tương quan với tập thể. Chính ở góc độ tinh
thần tập thể này, trong thập niên 60, giới quản trị Nhật đã đề xướng ra
cái gọi là “Nhóm Chất lượng” (QC – Quality Circle), cốt lõi của khái
niệm Quản lý Chất lượng Toàn diện (TQM- Total Quality Management). TQM
đã đẩy thương hiệu “Made in Japan” trở nên nổi tiếng toàn cầu: Rẻ, Đẹp,
Bền, và Tin cậy. Nhân viên gắn bó với công ty nhiều hơn, bởi thế công ty
Nhật khi cần thiết có thể huy động nhân viên làm thêm giờ (có lương
hoặc không lương) mà ít khi gặp rắc rối.
Quản
trị Mỹ lại khác, tất cả là hiệu quả công việc dựa trên sự nổi bật của
cá nhân. Một giám đốc sau 5 năm làm việc, dù hiệu quả xuất sắc cũng có
thể bị chấm dứt hợp đồng khi hết hạn. Họ quan niệm, vị giám đốc cũ đã bị
“chai” sáng kiến trong môi trường quen thuộc. Một giám đốc mới sẽ phải
“quậy” hơn, chứng tỏ bản lĩnh hơn, với mức khởi đầu từ sự thành công của
người tiền nhiệm.
Ông Minchico
Sakano, giáo sư khoa Kinh Doanh, trường đại học Gifu, trong buổi hội
thảo về “Cải tiến sản xuất và phương pháp thực hiện” tại Sài gòn cách
đây 3 năm, có đưa ra một giải thích thú vị, COMPANY là chữ được ghép lại
từ tiếp đầu ngữ COM, có nghĩa là cùng với nhau. PANY trong tiếng Hy Lạp
xưa có nghĩa là bánh mỳ – COMPANY được hiểu là một tập thể trong đó mọi
người cùng hợp tác với nhau để mưu sinh. Ông Sakano kết luận: Một công
ty sẽ ra sao nếu tất cả nhân viên trong công ty không toàn tâm toàn ý
cho mục tiêu chung – Cá nhân trong tập thể của công ty Nhật là vậy.
Một đặc điểm của quản trị Á Ðông là người trên phải làm gương cho kẻ dưới, còn ở phương Tây, lãnh đạo chủ yếu dựa vào luật lệ.
Cựu
thủ tướng Lý Quang Diệu, và cũng là Chủ tịch Danh dự Hiệp hội Khổng
giáo Quốc tế, mặc dù rất khâm phục xã hội Mỹ ở đặc điểm cởi mở trong
tranh luận về ưu khuyết điểm của xã hội hoặc phê bình các công chức,
nhưng ông vẫn khẳng định: “Ở phương Ðông, vấn đề là cần có một xã hội
trật tự để mọi người có thể hưởng thụ tốt sự tự do của mình”.
Người đời nay “ngán” Khổng giáo có lẽ do nó gò bó trong trật tự, đề cao Lễ – Nhạc, nhưng Khổng Tử cũng nói: “Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?” (Luận ngữ). Trong quan hệ thầy trò, Khổng Tử nói: “Làm điều nhân thì dẫu là thầy mình, mình cũng không nhường”
(Luận Ngữ). Nhân là yếu tố cốt lõi trong học thuyết của Khổng Tử. Lễ là
biểu hiện quá trình tu dưỡng, là phản ảnh của Nhân, và có thể thay đổi
theo trình độ phát triển kinh tế xã hội. Bỏ cái cốt lõi đi thì xã hội sẽ
ra sao?
Khổng giáo đề cao thuyết
Chính Danh: Quân quân – Thần thần – Phụ phụ – Tử tử (Vua ra vua, tôi ra
tôi, cha ra cha, con ra con). Vậy thì, Khổng giáo trong chừng mực nào
đó, đâu có nghĩa chỉ gói gọn trong trật tự tuân phục, mà còn là tư cách
của người được tuân phục.
Mạnh Tử được xem là “học trò từ xa” của Khổng Tử nói: “Ta nghe nói Chu Văn Vương có giết một kẻ thất phu tên là Trụ chớ chưa hề nghe nói giết vua bao giờ”. Tuân Tử, cũng được xem là môn đồ Khổng giáo, sống sau Mạnh Tử vài chục năm nói: “Vua là thuyền, dân là nước, nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền”.
Những tư tưởng cổ lỗ sĩ cả 2.500 năm, nêu lên được mối quan hệ giữa nhà
cầm quyền và người dân như thế này, thì coi bộ ngày nay (và mai sau)
vẫn còn xài được quá đấy chứ.
Bàn về chữ Hiếu, Khổng Tử nói: “Ngày
nay, nhiều người cho rằng nuôi được cha mẹ là có hiếu. Thế nhưng ngay
cả chó, ngựa cũng được nuôi dưỡng như thế. Nếu người ta không tỏ được
lòng kính trọng với cha mẹ, thì việc nuôi cha mẹ và nuôi chó ngựa có
khác gì nhau?” (Luận Ngữ). Sống trong thời buổi văn minh @, tinh
thần thực dụng, tiện nghi thừa mứa, ngẫm nghĩ câu này không thấy… chột
dạ sao?
Những
ứng xử chỉ ra trong Nho giáo nguyên thủy (*) là mối quan hệ hai chiều,
hiểu xa hơn nữa, nó mang tính trung dung. Tất cả đều xuất phát từ nền
tảng Chính Danh. Người đời sau, từ nhà Hán trở xuống, đã giải thích lời
nói của Khổng Tử cho những mục đích khác nhau, đã biến quan hệ hai chiều
thành một chiều. Khổng Tử đâu có nói “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, hay “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”,…
hồi nào đâu. Quá trình phát triển Khổng giáo từ đời Hán cũng hơn 2.000
năm, với cả trăm, cả ngàn triết gia, thêm thắt chế biến nhiều, tiêu cực
có, tích cực cũng có. Tất cả đều được gom lại và ấn… vào đầu Khổng Tử,
gọi chung là Khổng giáo. Người ta không chịu phân biệt Khổng giáo và Nho
giáo, hay ít ra, giữa Khổng học và Nho học. Tội thay cho phu tử! Mũi
lái chịu đòn…
Tôi không nghĩ rằng Việt
Nam sẽ hoá rồng trên nền tảng Khổng giáo, mà dĩ nhiên phải là trên khoa
học công nghệ, và quản trị hiện đại. Nền quản trị này được thích nghi
với những giá trị Châu Á nói chung, phù hợp với bản sắc văn hoá riêng
của dân tộc. Khổng giáo ra đời cả 2500 năm rồi. Vấn đề là điều chỉnh để
thích nghi, chứ không phải là phủ nhận mọi giá trị của Khổng giáo.
Nếu
Khổng Tử sống lại, và về thăm cố hương Khúc Phụ lúc này, hẳn ngài cũng
phải thích nghi và cười xoà khi biết rằng, quê ngài bây giờ đã là điểm
du lịch nổi tiếng. Nơi đó, con cháu ngài một bên dựng đền thờ Khổng Tử,
một bên là kinh doanh rượu mang nhãn hiệu… Kong Fu Jia Jiu (rượu Khổng
Tử gia). Và đến đấy, biết đâu ngài lại chẳng ngồi trên bậc tam cấp đền
thờ và nâng chén “Kong Fu Jia Jiu” để… tiêu sầu.
Vũ Thế Thành
Đà Lạt 2012
Đà Lạt 2012
Trích tuyển tập “Những thằng già nhớ mẹ”
Đăng lại từ blog vuthethanh.com
Mời độc giả tìm đọc các tác phẩm “Sài Gòn, một góc ký ức và bây giờ” và “Những thằng già nhớ mẹ” của tác giả Vũ Thế Thành cùng một số tác phẩm khác tại đây.
Chú thích:
(*)
Khổng Tử sống ở thời Xuân Thu, còn Mạnh Tử thời Chiến Quốc, cách nhau
khoảng 180 năm. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử (có thể kể thêm Tuân Tử, sau
Mạnh Tử vài chục năm) hình thành nền Nho giáo tiền Tần hay Nho giáo
nguyên thủy. Các đời sau, mỗi thời giải thích Khổng giáo theo cách riêng
của họ, phần lớn là cho mục tiêu chính trị, nên mới có Hán nho, Đường
nho, Tống nho (còn gọi là neoconfucism), Minh nho,…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét