.
MẸ TÔI – Bà Hoàng Đạo
Sơ lược về tác giả:
Năm 1971, tôi (Đoàn Dự) từ miền Tây được đổi về dạy tại một trường
ở Biên Hòa. Đến năm 1974 thì chị Nguyễn Từ Dung tức ca sĩ Từ Dung, con gái nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long
(1907-1948), vợ trước của nhạc sĩ Từ Công Phụng, được đổi về dạy Anh văn tại trường.
Thời chúng tôi, tốt nghiệp ĐHSP được coi là tương đương với bằng cử nhân. Nhưng vì học
ĐHSP, nếu thuộc ban văn chương thì phải học chung với sinh viên ở trường
Đại học Văn Khoa, còn nếu thuộc ban khoa học thì học chung ở trường Đại học
Khoa Học. Bởi vậy khi tốt nghiệp ĐHSP, hầu hết các sinh viên đều có bằng cử
nhân Văn khoa hay Khoa học. Tôi biết chị Từ Dung đậu Cử nhân Anh Văn, còn chị
có học ĐHSP hay không thì tôi không rõ. Ngoài ra, trước đây tôi
tưởng cái tên “Từ Dung” của chị có liên quan với tên người chồng là Từ
Công Phụng. Nhưng không, sau khi dạy cùng trường với chị, tôi mới biết tên thật của chị là Nguyễn Từ Dung, con
gái nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, cháu gọi nhà văn Nhất Linh Nguyễn
Tường Tam bằng bác vả gọi nhà văn Thạch Lam Nguyễn Tường Lân bằng chú, không
liên quan gì đến họ “Từ” của NS Từ Công Phụng.
Sau “giải phóng” 1975, chị có cô bé con gái thấy gọi tên là bé
Ti-cu, khoảng 5 – 6 tuổi, thỉnh thoảng chở xuống trường chơi nhưng không thấy
anh Từ Công Phụng xuống bao giờ cả.
Thế rồi khoảng 10 năm sau, tức năm 1983 hay 1984 gì đó, tự dưng
chị biến mất, không đi dạy nữa. Cả ban giám hiệu lẫn bạn bè đều không biết tin
tức gì về chị. Mãi mấy năm sau chúng tôi mới nghe tin chị và anh Từ Công Phụng
đã chia tay nhau, anh Phụng đem bé Ti-cu vượt biên sang Mỹ còn chị Từ Dung thì
không biết ở đâu tại Sài Gòn. Rồi lại mấy năm sau nữa, chúng tôi được tin chị
lấy chồng người Mỹ và đã sang Mỹ.
Bẵng đi suốt bao nhiêu năm, mới đây tự nhiên tôi bỗng nhận được
email của một người bạn ở Mỹ gửi cho một bài của chị Từ Dung viết về người mẹ
của chị tức bà Hoàng Đạo. Cả nhà văn Hoàng Đạo lẫn chị Từ Dung đều là người của
công chúng, vậy tôi xin đăng lên đây để quý bạn độc giả tờ báo thân yêu của
chúng ta hiểu rõ một phần nào về gia đình nhà văn Hoàng Đạo.
Sau đây là nguyên văn bài viết của chị Từ Dung kể cả hai chữ “Chấm
hết” khá đặc biệt của chị ở cuối bài...
Tôi không biết phải bắt đầu ra sao khi viết về mẹ tôi, vì
có rất nhiều điều để nói. Cũng có thể dưới con mắt chủ quan, tôi
nghĩ bà là một trong những người phụ nữ phương Đông tuyệt vời nhất
trên cõi đời này. Người mẹ dịu hiền mà tôi được may mắn biết đến,
với đầy đủ những đức tính về công, dung, ngôn, hạnh của một người
đàn bà Á Đông, đã hy sinh cả một cuộc đời mình cho chồng, cho con và
cho những nghĩa cử từ thiện ngoài xã hội với nụ cười luôn trên môi
cùng chiếc răng khểnh duyên dáng.
Công, dung, ngôn, hạnh
Về mặt dung nhan, vẻ
đẹp dịu dàng và đằm thắm của mẹ tôi đã hơn một lần làm rung động
những người phái nam có địa vị quan trọng trong nhiều lãnh vực xã
hội. Bà cao dong dỏng, thân hình đều đặn thanh tú, nước da mịn màng
trắng trẻo, dáng đi yểu điệu và uyển chuyển, khuôn mặt trái soan,
cặp mắt hơi hiếng (lé kim),mơ màng nhưng
sâu sắc, miệng cười duyên dáng với chiếc răng khểnh và cặp môi đầy
đặn.
Tôi có đọc vài cuốn sách viết về mẹ tôi với những lời
mô tả thiên lệch bắt nguồn từ những ghen ghét nhỏ mọn. Những người
viết này cố tình hạ thấp dung nhan, phẩm hạnh của bà vì đố kị nên
những người từng được tiếp xúc với bà vô cùng bất mãn vì những dối
trá trắng trợn đó. Theo ý một số những người có dịp tiếp xúc với
bà, bà là một trong những người đẹp và hợp thời trang nhất tại Hà
Nội vào những thập niên 1930-40. Ngay cả về sau, khi đã trên bốn mươi
tuổi và có bốn người con lớn, bà vẫn là một phụ nữ có vẻ đẹp
sang trọng và thanh lịch có tiếng ở Sài Gòn.
Tôi còn nhớ, trong lúc ở giá để nuôi các con ăn học thành
tài, mẹ tôi đã từ chối khéo léo và khiêm nhượng những người đàn ông
theo đuổi bà và về sau họ vẫn quý mến và nể phục tư cách của mẹ
tôi. Một trong những người này đã qua đời đã giữ lòng thương quý mẹ
tôi ngay cả khi bà đã tạ thế. Khi ra nước ngoài, ông gửi thơ về nhờ
tôi đặt lên mộ mẹ tôi một bó hồng đỏ thắm mỗi tuần lễ, như ông vẫn
thường làm trước khi ra đi! Mẹ tôi đã từ chối tất cả những người
đàn ông đến sau, vì trong trái tim của bà chỉ có hình bóng của một
người yêu duy nhất, đó là ba tôi, Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long.
Về công, tức là tài năng khéo léo, ít có người phụ nữ
nào có tài nấu nướng những món ăn Việt cũng như Pháp tuyệt hảo như
mẹ tôi. Nào canh bóng, vây, bào ngư, nấm nhồi giò, chả nem rán, bánh
chưng gói, món Tây thì súp legume, bò hầm đậu, cua phá xi...
Các ngày giỗ chạp, tiệc rượu linh đình, một mặt mẹ tôi
nấu ăn và chỉ dẫn cho người giúp việc, một mặt tiếp đãi khách với
nụ cười hiền thục trên môi. Ai cũng phải mến yêu bà. Chị Thu tôi đã
lớn thì giúp một tay, còn tôi bé út nhất nhà (cách anh Lân đến 9
tuổi) chỉ chạy chơi và chực ăn trứng luộc trên bàn thờ!
Sau này mẹ tôi mở tiệm Chả Cá Thăng Long (1959) ở đầu
đường Phan Thanh Giản. Tiệm rất đắt khách và là một trong những tiệm
ăn sang trọng thanh lịch và ngon lành tinh khiết nhất Sài Gòn lúc bấy
giờ.
Về ngôn, khoa ăn nói, mẹ tôi ăn nói nhã nhặn, điềm đạm và
nhu thuận, lúc nào cũng giữ vẻ bình tĩnh. Bà cũng dạy các con phải
ăn nói đàng hoàng. Ngoài phái nam ra, phái nữ cũng thương mến bà,
bạn bè và các bà cô, dì hai bên họ đều tìm đến bà khi hoạn nạn,
nhưng cũng có một số nhỏ đem lòng ganh tị và tìm cách bôi nhọ thanh
danh bà.
Về phẩm hạnh, không ai có thể chối cãi rằng mẹ tôi là
một phụ nữ đảm đang, hy sinh cả cuộc đời cho chồng, cho con mà không
hề phàn nàn, than vãn.
Thời thơ ấu của
mẹ tôi – ba mẹ tôi gặp nhau
Sinh ra trong một gia đình quý phái, trưởng giả, mẹ tôi lại
có những đức tính đơn giản, tốt bụng hay thương người. Ông ngoại tôi
làm tham tá công chánh dưới thời Pháp thuộc, bà ngoại tôi là một
mệnh phụ đài các nhưng khôn ngoan, biết quản lý tài sản của ông tôi,
biết tiết kiệm. Mẹ tôi lại là con một nên được lo toan rất chu đáo,
quá chu đáo đến nỗi mẹ tôi cảm thấy ngộp thở.
Bà ngoại tôi tính tình độc đoán, muốn chồng con phải
phục tùng theo cách sinh hoạt của bà. Thậm chí mẹ tôi chỉ được quyền
chơi những đồ chơi bà ngoại cho phép. Mẹ tôi kể lại rằng một lần ông
ngoại lén cho mẹ một con búp bê mà mẹ tôi thích, khi bà ngoại biết
được, bà lập tức vứt đi. Mẹ tôi khóc và nhớ mãi chuyện ấy. Bà
ngoại rất yêu mẹ tôi, nhưng cụ vẫn giữ tính khắc nghiệt đó nên có
những đụng chạm cãi vã không thể tránh được giữa hai mẹ con.
Khi ba mẹ tôi gặp gỡ
nhau, họ bị tiếng sét ái tình đánh choáng váng. Một bên cảm vì
sắc, một bên mến vì tài. Ba tôi tuy ít nói, nhưng có lối châm biếm
khôi hài thật duyên dáng và sâu sắc đã chinh phục được trái tim trong
trắng của mẹ tôi. Tính cách khôi hài này được thể hiện trong tập “Trước
vành móng ngựa”. Mối tình của ba mẹ tôi là nguồn
hứng khởi của mối tình của Duy và Thơ trong “Con đường
sáng”.
Là một phụ nữ có tâm hồn nhạy cảm và chịu ảnh hưởng
phong trào văn hóa mới vì mẹ tôi theo học trường Pháp và tốt nghiệp
trường Pháp, bà thông cảm và hỗ trợ chí hướng phi thường của ba tôi,
người đã từ chối chức tri huyện khi tốt nghiệp cử nhân luật, sau lại
bỏ chức biện lý vì chống lại tòa án Pháp thuộc ngày đó. Điều này
thể hiện trong tác phẩm “Trước vành móng ngựa”.
Phải là một phụ nữ phi thường mới thấu hiểu và tôn
trọng một tâm hồn phi thường như ba tôi, và mới hy sinh tuổi xuân sắc
để giúp đỡ chồng một cách đắc lực trong quá trình tranh đấu cho dân
tộc và đất nước.
Lần đầu khi đi xem mắt mẹ tôi tại tòa biệt thự của bà
ngoại tôi ở bãi biển Sầm Sơn, ba tôi đã bị tiếng sét ái tình. Mối
tình đẹp như thơ đó đã bị cả hai bên gia đình phản đối, bên nội vì
lý do bà nội tôi không chuộng gia đình trưởng giả, bên ngoại vì không
cho là đủ môn đăng hộ đối. Nhưng ba mẹ tôi đã vượt thắng tất cả để
tìm đến nhau và lập gia đình!
Một
cuộc hôn nhân đây hy sinh và chia ly
Chị cả tôi, chị Minh Thu, ra đời năm 1934, là tác phẩm đầu
tiên của sự kết hợp tuyệt vời đó. Năm kế là anh Nguyễn Tường Ánh
và cách một năm nữa là anh Nguyễn Lân. Ba mẹ tôi những tưởng anh Lân
là con út rồi vì lúc đó ba tôi rất ít khi ở nhà, ông đã bị quay
vào guồng máy thời cuộc lúc ấy. Khi ba tôi bị bắt, bị tra tấn tại
sở mật thám và sau bị đi đày ở Vụ Bản, Chân Lạp Sơn, mẹ tôi rất lo
buồn và đi lại tiếp tế nhiều lần.
Tháng Tám, 1946, ba tôi cầm đầu phái đoàn hòa giải, trong
đó có cả người của Việt Nam Quốc Dân Đảng, của bên Việt Minh, và có
nhân viên bộ Công Chính là kỹ sư Đỗ Xuân Dung để xem tình hình nước
lụt ở Việt Trì (ngã ba sông Hồng Đào) và ba tôi bị bắt. Khi được thả
ra, ba tôi sang Trung Hoa gặp gỡ bác Nguyễn Tường Tam và các anh em
khác. Thời gian đó mẹ tôi thường xuyên mang vật phẩm và tiền bạc sang
tiếp tế cho ba tôi và các anh em khác. Ngoài ra, một tay bà lo dạy dỗ
các con, chăm sóc mẹ già và cũng một tay bà lo toan hỗ trợ người
chồng cách mạng lưu vong nơi xứ người. Phụ nữ như thế không phải ở
thời đại nào cũng có!
Ba mẹ tôi lúc ấy như Chức Nữ Ngưu Lang, chẳng được thường
xuyên gặp gỡ nên mỗi lần trùng phùng thật quý giá vô cùng! Tôi là
kết qủa của một trong những lần gặp gỡ đó. Ba tôi gởi thư về dặn
mẹ nếu là con gái thì đặt tên Từ Dung, con trai thì Duy hoặc Giản.
Như vậy Từ Dung là tên cúng cơm của tôi chứ không phải tên hát xướng
đặt theo một nhân vật khác! Từ Dung có nghĩa là hình Dung giống mẹ,
vì ba tôi lúc nào cũng tưởng nhớ mẹ tôi.
Tôi ra đời ngày 30 tháng Mười năm 1946 tại Hà Nội trong
tình thương yêu của cả nhà. Ba tôi vẫn ở biền biệt bên Trung Hoa nên chẳng
thấy mặt tôi, chỉ nhận được tin tức qua thư tín gia đình.
Lần gặp gỡ cuối cùng của ba mẹ tôi năm 1948 tại Hongkong
rồi sau đó ba tôi bị một cơn đau tim tạ thế trên đường đi xe lửa về
Quảng Châu, lúc đó tôi được 19 tháng. Được tin sét đánh, mẹ tôi phải
lo tiền bạc quay trở lại chôn cất ba tôi tại Quảng Châu. Hiện nay không
còn biết mộ phần nằm đâu nữa vì các nấm mồ đều bị khai quật dưới
chế độ Trung Hoa Cộng Sản!
Kể từ đó, mẹ tôi ở vậy nuôi con cho đến khi các con khôn
lớn. Bố con tôi chỉ biết nhau qua hình ảnh thư từ. Tôi được nghe kể
lại về ba tôi qua lời nói của mẹ, của anh chị và của cậu tôi, Như
Phong Lê Văn Tiến. Tôi nghĩ rằng tôi được thừa hưởng óc khôi hài châm
biếm của ba tôi, cũng như dòng máu văn chương chảy cuồn cuộn trong tim
óc!
Tại Hà Nội, gia đình tôi sống tại đường Lý Thái Tổ,
Hàng Vôi. Trường Hàng Vôi là ngôi trường đầu tiên trên con đường học
vấn của tôi. Năm 1990, trước khi rời Việt Nam, tôi ghé thăm ngôi nhà gia
đình và ngôi trường thơ ấu. Ngôi nhà xinh đẹp hai tầng có cây bàng
trước sân giờ đây ngăn ra cho tám hộ ở, phòng ngăn bằng vải rideau.
Bàn thờ tổ tiên vẫn còn nguyên chỗ cũ nhưng chỉ còn một ông lão còn
nhớ về nguồn gốc căn nhà.
Trở lại năm 1954, chúng tôi rời căn nhà thân yêu lên đường
vào Nam trên một chiếc phi cơ quân đội. Tôi mới có 8 tuổi nên chỉ nhớ
là mẹ tôi vội trở lại miền Bắc để thanh toán mấy căn nhà ở Hà Nội
của bà tôi và gom tiền bạc để sinh sống trong Nam. Lúc đó sắp sửa
đóng cửa ra vào hai miền nên các anh chị, tôi lo lắng sợ mẹ tôi bị
kẹt lại Hà Nội.
Khi mẹ về, chúng tôi hết sức mừng rỡ. Chúng tôi tạm ở
chia với họ hàng bên ngoại một căn nhà đường Đặng Dung, Tân Định. Đó
là thời gian đẹp nhất của đời tôi! Mẹ con, anh chị em đoàn tụ yêu
mến nhau. Tôi ở tuổi bắt đầu ý thức được tình cảm quý báu của gia
đình. Ý nguyện của tôi là anh chị em tôi sẽ trở lại quây quần như
thời đó!
Khi đến học lớp Tư trường Huỳnh Thị Ngà thì tôi gặp khó
khăn với cô giáo Nam Kỳ với giọng đọc chính tả mới lạ. Tôi có đến
mười lỗi trong bài “Lạc vào rừng” vì tôi không hiểu gì cả. Các bạn
chế nhạo accent Bắc kỳ và gọi tôi “Bắc kỳ rau muống”.Đó là bài học
đầu tiên của tôi về kỳ thị địa phương dạy tôi sau này chống lại mọi
thứ kỳ thị trên cõi đời này!
Đời
sống tại Sài Gòn
Cùng lúc ấy, mẹ tôi mở tiệm phở và chả cá Thăng Long
trên đường Trần Quang Khải, Tân Định, sau chuyển về tiệm chả cá Thăng
Long trên đường Phan Thanh Giản. Sau này ngẫu nhiên quán cà phê nhạc Từ
Dung của tôi mở năm 1978 cũng lại tọa lạc trên con đường Trần Quang
Khải và người hầu bàn trưởng tại chả cá Thăng Long tên là anh Tư lại
trở thành người pha cà phê chính của quán Từ Dung.
Tiệm chả cá Thăng Long do họa sĩ Nguyễn Gia Trí trang
hoàng có một vẻ Á Đông trang nhã với những chiếc cột đỏ, những tấm
bình phong và hình vẽ đặc biệt Việt Nam rất mỹ thuật. Một tấm tranh
dân gian của Phạm Tăng treo dọc cả bức tường trong căn phòng riêng của
quán. Bức tranh này sau tôi bị một tay văn sĩ hạng b, c gì đó lừa
lấy mất!
Căn nhà mẹ tôi mua rộng lớn, một bên mở tiệm, còn một bên
gồm năm phòng để gia đình tôi ở. Tiệm luôn đông khách tấp nập và các
danh nhân, nghệ sĩ như Mặc Thu, Nguyễn Hoạt, bác Nhất Linh, Chu Tử
thường xuyên đến ăn chả cá. Thế nhưng vấn đề tài chính không mấy khả
quan vì mẹ tôi quá tốt bụng, luôn nuôi ăn ở và trả lương cho 6,7 người
giúp việc nên tiền vào tuy khá nhưng ra cũng lắm. Mẹ tôi không bao giờ
từ chối mở hầu bao giúp cho những người đến cầu cứu gia đình tôi!
Lúc đó chị Minh Thu, anh Tường Ánh lập gia đình nhưng lúc
đầu anh Ánh vẫn ở chung với mẹ tôi. Các anh chị có gia đình riêng nên
không còn gần gũi nhau như xưa. Tôi cảm thấy mẹ buồn nhưng không biết
an ủi mẹ ra sao, chỉ biết rúc vào lòng mẹ. Khi anh Ánh và vợ dọn đi
ở riêng trong một căn nhà mẹ mua cho anh, tôi được thừa hưởng căn phòng
trống cạnh phòng anh Lân. Trước mặt hai căn phòng là một sân cement
nhỏ trồng vài cây cảnh như cây trúc đào, cây mận sai trái vì tôi chôn
xác con mèo dưới gốc cây.
Đằng sau phòng tôi là một cây trứng cá trái mọng nước và
rất ngọt. Căn phòng này đã ghi một ấn tượng sâu đậm về thời thơ ấu
của tôi sống êm đềm trong tay mẹ hiền. Có phòng riêng rồi nhưng tôi
vẫn đòi ngủ với mẹ để được hít mùi da thịt của bà, thơm mùi nước
hoa Guerlain và mùi phấn. Tôi cũng đòi mẹ ngâm thơ Kiều hoặc hát quan
họ cho nghe như lúc còn bé tí.
Cũng vì vậy mà tôi rất thuộc Kiều và những bài thơ ru
em. Mẹ tôi yêu nhạc Đông phương nhưng cũng mê nhạc cổ điển Tây phương,
nên khi mẹ mất, gia đình tôi mở nhạc Bach và Beethoven bên quan tài để
hương hồn mẹ tôi về thưởng thức, thay vì giọng ê a của các vị sư hay
kinh của các cha cố!
Sau này mẹ tôi bắt đầu gặp khó khăn về tài chính nên phải bán đi một số nữ trang. Lúc đó là đầu thập niên 1960, quân đội Mỹ đổ sang Việt Nam nên mẹ tôi theo trào lưu cũng dẹp tiệm chả cá và cho Mỹ thuê một bên nhà để mở nhà hàng có âm nhạc tên là Kontiki. Đêm nào tôi cũng được nghe tiếng đàn hát vọng sang từ bên nhà hàng của ban nhạc Đăng Tiến, thỉnh thoảng tôi cũng sang hát chơi những bản như Autumn leaves, A very precious love, Mona Lisa....
Sau này mẹ tôi bắt đầu gặp khó khăn về tài chính nên phải bán đi một số nữ trang. Lúc đó là đầu thập niên 1960, quân đội Mỹ đổ sang Việt Nam nên mẹ tôi theo trào lưu cũng dẹp tiệm chả cá và cho Mỹ thuê một bên nhà để mở nhà hàng có âm nhạc tên là Kontiki. Đêm nào tôi cũng được nghe tiếng đàn hát vọng sang từ bên nhà hàng của ban nhạc Đăng Tiến, thỉnh thoảng tôi cũng sang hát chơi những bản như Autumn leaves, A very precious love, Mona Lisa....
Tôi khoảng 16 tuổi, tuổi đầy mộng đẹp và bắt đầu mơ đến
tình yêu! Mấy năm sau mẹ tôi bán căn nhà rộng lớn đường Phan Thanh
Giản và mua căn nhà nhỏ hơn có ba phòng ngủ và một căn gác ở Ngã
năm Bình Hòa đường Chu Văn An. Nhiều người ngăn cản bà mua căn nhà này
vì nó nằm cuối ngõ cụt và có một ngôi mộ đằng sau nhà nên theo địa
lý rất xấu. Không biết có phải là mê tín không mà sau này mẹ tôi bị
ung thư nặng và chết tại căn nhà đó, bà ngoại tôi cũng chết theo ở
tuổi 98 vì quá đau đớn, mẹ tôi là con duy nhất của cụ, cậu tôi Như
Phong Lê văn Tiến bị bắt giam cũng ở đó, gia đình vợ chồng tôi thì
phân tán, chia ly.
Năm Mậu Thân 1968 nơi này là tử địa của tàn quân Việt
Cộng, sau khi VC thất bại trong trận tổng công kích Saigon, đã rút lui
về nơi đây. Ngôi nhà chúng tôi bị đạn bắn từ máy bay xuống lỗ chỗ
đầy những vết đạn, cũng may là khi cả khu phố bốc cháy như một con
rồng lửa thì bỗng dừng lại khi tới nhà chúng tôi. Thật là một phép
lạ! Tôi giúp mẹ, bà ngoại và hai mẹ con bác giúp việc chạy khỏi
nhà, chân phải chạy lung tung tránh xác VC nằm đầy ngõ và tránh tầm
đạn của hai bên bắn nhau. Một ông hỏi ông khác «ai
đánh ai?», ông kia
trả lời «quân mình đánh quân ta»!
Từ lúc đó mẹ tôi bị ung thư bên cánh tay trái và căn bệnh
kéo dài tới năm 1975 thì mất. Vị bác sĩ đã hết lòng chữa chạy cho
mẹ là bác Trần Ngọc Ninh, một người bạn thân của gia đình tôi. Hai
bác sĩ khác của gia đình tôi là bác sĩ Phan Huy Quát và bác sĩ Kỳ
Quan Thân. Cánh tay xinh đẹp, nuột nà, trắng bóc của mẹ tôi chỉ để
đeo những nữ trang qúy giá nay đã bị cắt đi đến hai lần, và sau cùng
căn bệnh quái ác đã ăn vào tủy sống làm mẹ hôn mê trong 24 tiếng
đồng hồ trước khi từ gĩa cõi đời. Trước khi bị hôn mê, căn bệnh ăn
vào tủy làm bà thấy mọi vật nhuộm muôn màu muôn sắc.
Không có gì diễn tả nổi nỗi đau đớn của người mắc bệnh
ung thư. Lầu 5 của Viện Ung Thư ở Gia Định phải rào lại vì nhiều
người trong cơn đau đã nhảy xuống tự vận. Trong khoảng cuối cùng của
cuộc đời đầy hy sinh, chịu đựng, đau đớn, bà vẫn tiếp tục làm
phước, giúp người. Bà bảo trợ cho một số người bị ung thư trong Viện,
trong số đó có một anh binh sĩ trẻ, đẹp trai như Alain Delon. Anh bị
ung thư xương chân, chỉ trong vài tháng là từ trần. Mẹ tôi, lúc đó đã
phải dùng tới codein cho bớt đau và bò lết dưới đất rên la, cũng vẫn
lo cho anh trong những ngày chót của cuộc đời anh!
Tại sao một phụ nữ hiền hậu như mẹ tôi và có lòng thương
người lại phải chịu một số phận đớn đau như vậy? Khi mẹ tôi mất đi,
bà không bám víu vào một niềm tin tôn giáo nào cả vì bà không tìm
thấy đức tin nơi cuối đời. Lúc gần chết, bà cảm thấy hoang mang...Khi
nhìn ngắm xác mẹ trong chiếc áo trắng tôi mặc cho bà và cành hoa lan
trắng trước ngực bà, tôi mới ý thức được nỗi mất mát lớn lao đến
thế nào. Đã quá muộn để chiều chuộng mẹ, để nói rằng mẹ ơicon yêu
mẹ, để cám ơn bà cho tôi đời sống hôm nay và niềm tin ngày mai.
Có một con bướm trắng bay quanh quan tài của mẹ nhiều lần
trước khi hạ huyệt, có phải chăng linh hồn mẹ muốn từ giã các con
lần cuối? Từ Dung xin thay mặt người quá cố cũng như các anh chị gửi
lời cám ơn anh Sơn, con của cô Thế đã lo việc rải tro xuống biển cho bà
và mẹ chúng tôi tại Việt Nam để linh hồn bà và mẹ chúng tôi được
siêu thoát và xin Chuá ban phước lành cho anh và gia đình anh.
Chấm hết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét