Trong những năm
trở lại đây, vấn đề tham nhũng trong cán bộ, công chức nhà nước đã khơi
gợi dư luận về chính sách hồi tỵ thời phong kiến như một bài học chống
tham nhũng. Đây là một chế định giúp chống nạn quan lại cát cứ, lạm
quyền trong điều kiện không bị khống chế do “trời cao hoàng đế xa” ở địa
phương.
Không chỉ có nhà nước Việt Nam phong
kiến, các nhà nước ở những vùng địa lý khác nhau, vào những thời điểm
khác nhau đã từng ban hành chính sách hồi tỵ.
1. “Hồi tỵ” là gì?hay t
Hồi tỵ (chữ Hán:
迴避 hoặc 回避 – tiếng Anh: rule of avoidance) nguyên nghĩa là: tránh né,
lánh đi. Như vậy, hồi tỵ có thể hiểu trong bối cảnh này là quy tắc
tránh việc quan lại trở về chốn xuất thân làm quan. Với ý nghĩa ban đầu
như vậy, sau này được bổ sung thêm, theo đó chính sách hồi tỵ ngoài việc
không cho phép quan lại địa phương làm quan ở quê hương, còn cấm họ làm
quan ở nơi có bà con là thuộc liêu (quan cấp dưới), hoặc nơi có gia
đình nhà vợ, người thân trong gia tộc.
Luật hồi tỵ đối với quan lại có những
biến thể khác nhau ở từng thời kỳ, tại từng quốc gia khác nhau. Nhưng
nhìn chung, tinh thần xuyên suốt của hồi tỵ là để ngăn ngừa tham nhũng,
kéo bè kết cánh theo dòng tộc thân thuộc của quan chức địa phương,
giúp chính quyền trung ương tập quyền kiểm soát được quyền lực.
2. Xuất xứ từ Trung Quốc
Chính sách Hồi tỵ xuất hiện lần đầu tiên
và sớm nhất ở Trung Quốc vào thời nhà Tùy (581-619), và tiếp tục được
phát triển ở các triều đại tiếp theo cho đến thời nhà Thanh.
Theo đó, quan lại không được phép làm
quan tại quê hương của mình để gia đình và bạn bè không thể ảnh hưởng
đến công việc của họ. Thời hạn làm quan tại một địa phương chỉ kéo dài
từ 3-4 năm, sau đó họ sẽ được luân chuyển đi nơi khác nhậm chức. Cha mẹ
và con trên 15 tuổi không được đi theo.
Như vậy, các quan lại khi được bổ nhiệm
về các địa phương, họ hoàn toàn xa lạ với cư dân và môi trường ở đó. Vì
thế, tình trạng thiên vị thân hữu sẽ không xảy ra, đảm bảo công bằng,
minh bạch.
3. Hồi tỵ ở Ấn Độ
Vào khoảng thế kỷ 16, ở vùng đất nay
thuộc Ấn Độ, Pakistan và Afghanistan, đế chế Mughal (Mongol) do Akbar
đại đế thống trị cũng đã từng xuất hiện hệ thống tương tự “hồi tỵ”.
Hệ thống này nhằm đảm bảo nhà nước được
vận hành trôi chảy và ngăn chặn nguy cơ tham nhũng. Quan lại không được
giữ chức quá lâu để tránh thâu tóm quyền lực ở địa phương và trở nên uy
vọng hơn Hoàng đế. Sau một khoảng thời gian nhất định, các quan chức sẽ
được điều chuyển và thẩm quyền sẽ được luân chuyển thường xuyên. Việc
vận hành hệ thống này dưới thời vua Akba đã giúp ngăn ngừa tham nhũng và
sự thiên vị. Tuy nhiên, cách làm này đã bị các hoàng đế thế hệ sau lãng
quên.
4. Hồi tỵ dưới thời vua Lê Thánh Tông
Ở Việt Nam, chính sách hồi tỵ được ban
bố lần đầu tiên dưới thời vua Lê Thánh Tông (trị vì từ 1460 đến 1497)
trong một nỗ lực cải cách hành chính và quan chế của ông. Dựa trên những
kinh nghiệm trị quốc sau 26 năm đầu cầm quyền, Lê Thánh Tông đã ban bố
những chiếu, lệnh về hồi tỵ, xây dựng chính sách này ngày một hoàn thiện
trong 11 năm sau đó.
Đối tượng áp dụng của chính sách hồi tỵ
dưới thời Lê Thánh Tông là các vị quan đứng đầu bộ máy chính quyền dân
sự và quân sự địa phương. Quan trọng nhất là cấp cơ sở – quan xã,
những người dễ dàng bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ gia đình, gia
tộc, không thể giữ được sự công tâm, khách quan trong công việc.
Về cơ bản, quan lại thời Lê sơ không
được bổ nhiệm về cai trị huyện hoặc tỉnh mà người đó xuất thân hoặc có
họ hàng tại nhiệm ở vị trí lãnh đạo. Họ cũng không được lấy vợ hoặc
thiếp có xuất thân từ địa phương mình đang nhiệm sở và không được tại vị
quá lâu ở cùng một địa phương hoặc cùng một viện, bộ chức năng.
Tuy nhiên, do không được pháp điển hóa
thành luật nên chính sách hồi tỵ dần mai một và bị quên lãng. Chỉ đến
thời Nguyễn, chính sách này mới được vua Minh Mạng khôi phục lại và hoàn
thiện thêm.
5. Hồi tỵ dưới thời vua Minh Mạng
Luật Hồi tỵ được ban hành dưới thời vua
Minh Mạng (trị vì từ 1820 đến 1841) vào năm 1831 và được sửa đổi bổ sung
vào năm 1836. Kế thừa những tư tưởng tiến bộ của Lê Thánh Tông, luật
hồi tỵ được vua Minh Mạng bổ sung, mở rộng phạm vi áp dụng với những quy
định nghiêm ngặt hơn. Một số nội dung chính có thể kể đến:
– Quan lại không được tậu đất, vườn, ruộng, nhà tại nơi cai quản.– Quan lại không được lấy người cùng quê làm người giúp việc.
– Người có quan hệ thầy trò, bạn bè không được làm việc tại cùng một công sở.
– Các lại dịch nha môn, các bộ ở kinh đô và các tỉnh là con, anh em ruột, anh em con chú, con bác với nhau thì phải tách ra, đổi bổ đi nơi khác.
– Các quan lại không được làm quan ở nơi trú quán (nơi ở một thời gian lâu), ở quê vợ, quê mẹ mình, thậm chí cả nơi học tập lúc nhỏ hoặc lúc trẻ tuổi.
– Các lại mục, thông lại cũng không được làm việc ở phủ huyện là quê hương mình.
– Các lại mục, thông lại các nha thuộc các phủ huyện là người cùng làng cũng phải chuyển bổ đi nơi khác.
– Các quan viên từ Tham biện trở lên ở các trấn, tỉnh về kinh đô chầu được dự đình nghị, song khi trong các cuộc họp có bàn việc liên quan đến địa phương mà mình nhậm trị thì không được vào dự.
– Các khảo quan (coi thi, chấm thi) có người thân thích dự thi ở trường mình thì phải báo lên cấp trên để tránh đi. Nếu cố tình không khai báo sẽ bị trọng tội vì cố ý làm trái.
– Các quan thanh tra, xét xử thấy trong vụ án, vụ điều tra có người thân quen của mình (bà con nội, ngoại, bạn thân…) đều phải khai báo và hồi tỵ ngay.
Sau này, vua Thiệu Trị còn quy định
thêm: Cấm quan đầu tỉnh lấy vợ trong trị hạt vì sợ gia đình vợ nhũng
nhiễu; cấm các quan tậu ruộng vườn, nhà cửa trong trị hạt vì sợ quan
hiếp dân để được mua rẻ; cấm tư giao với đàn bà con gái trong trị hạt;
cấm các quan lại đã về hưu quay lại cửa công để cầu cạnh.
Dạ Lãm, tổng hợp từ:
- Rule of avoidance, Wikipedia.
- Chinese scholar-officials and the imperial chinese bureaucracy, factsanddetails.com.
- Luật hồi tỵ và một vài suy ngẫm về công tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay, Ths. Nguyễn Xuân Tùng, 18/05/2011.
- Hồi Tỵ – Bài học quý trong đổi mới công tác cán bộ, TS. Đỗ Minh Cương.
- Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB Khoa học xã hội, H.2004.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét