Rừng bị tận diệt đến mức tĩnh lặng, không còn tiếng thú, tiếng chim là thực tế đang xảy ra khá nhiều tại Việt Nam.
Các nhà bảo tồn quốc tế nhắc đến khái niệm 'rừng lặng' (silent
forest), tức là những khu rừng bị săn bắn, tận diệt đến mức tĩnh lặng,
không còn tiếng thú, ít tiếng chim. Hiện tượng này dường như đã xảy ra ở
rất nhiều cánh rừng tại Việt Nam, khiến thịt thú rừng trở nên khan hiếm
và đắt đỏ hơn trước. Cánh thợ săn đã tận diệt từ khu rừng này, rồi càn
quyết qua khu rừng khác để đáp ứng nhu cầu thị trường. Rừng lặng - chính
là tương lai không xa của các cánh rừng Việt Nam nếu không có ngay
những hành động quyết liệt từ phía cơ quan quản lý, chính quyền địa
phương và người tiêu dùng.
Dù các cơ quan quản lý đã ban hành hàng loạt quy
định về cấm buôn bán, tiêu thụ động vật hoang dã, nhưng thực khách vẫn
tìm thấy những quán đặc sản thịt thú rừng khá dễ dàng ở bất cứ địa
phương nào trên cả nước.
Việt Nam vẫn được xem là một điểm nóng, là "trung tâm trung
chuyển" động vật hoang dã phục vụ nhu cầu trong nước lẫn xuất lậu sang
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và các thị trường khác.
Các loài voọc Việt Nam đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Ảnh: Vncreatures.
|
Nghiên cứu của ba tác giả Milica Sandalj, Anna Treydte và Stefan Ziegler thực
hiện năm 2015 với sự hỗ trợ của WWF-Việt Nam cho thấy, ước tính mỗi năm
có khoảng 3.500 đến 4.000 tấn thịt rừng đi qua thị trường Việt Nam. Một
nửa số này được tiêu thụ trong nước với 80% dưới dạng "đặc sản thịt
rừng".
Theo nghiên cứu này, 85% trong tổng số 329 người được hỏi ở Huế từng ăn
thịt rừng ít nhất một lần trong đời; 68% người có sử dụng thịt rừng
trong vòng 12 tháng kể từ ngày được hỏi. Trong số người không ăn thịt
rừng thì có đến 55% là do "không có cơ hội", 15% do "quá đắt" và 14% do
"không thích"; chỉ 7% không ăn thịt rừng vì "không rõ nguồn gốc".
Kết quả khảo sát cũng chỉ ra rằng nhóm người có thu nhập và trình độ
học vấn cao xu hướng ăn thịt rừng nhiều thường xuyên hơn, một phần do họ
có đủ khả năng tài chính, một phần để chứng tỏ đẳng cấp, phần khác do
niềm tin vào tác dụng bồi bổ và công hiệu tăng cường sức khoẻ của thịt
rừng.
Phần lớn thịt thú rừng tiêu thụ tại Việt Nam có nguồn từ loài
động vật bản địa bị săn, bắn, bẫy từ rừng, trong đó có cả rừng thuộc khu
bảo tồn, vườn quốc gia, nơi hành vi săn, bắt động vật hoang dã bị cấm
và kiểm soát nghiêm ngặt hơn các nơi khác. Một phần khác được nhập lậu
từ các nước lân cận. Trên thị trường cũng có các loại thịt thú rừng được
nuôi trong các trang trại. Tuy nhiên, thực khách thường không mặn mà
với các loại thịt không có tính “hoang dã” như vậy.
Để đáp ứng nhu cầu thịt rừng lớn đến như vậy thì cánh thợ săn phải săn
bắn đến cạn kiệt thú. Có những “tụ điểm” thu mua thú rừng và khu nhà
hàng đặc sản thịt rừng vốn hoạt động rầm rộ vài năm trước, nay phải đóng
cửa hoặc tìm nguồn thịt rừng từ nhiều nguồn khác nhau do cạn kiệt nguồn
thịt rừng tại địa phương.
Điều đó dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng của một số loài, trong đó có những
loài nguy cấp như bò tót, voọc … Ngoài ra, sự suy giảm nghiêm trọng về
số lượng cá thể trong một hoặc một số loài lại có thể dẫn đến nguy cơ
mất cân bằng trong tự nhiên. Một số loài có hại có thể sẽ phát triển rất
mạnh do không có thiên địch. Một số loài khác, đặc biệt là thú ăn thịt,
lại đứng trước nguy cơ chết đói do không kiếm được thức ăn.
Quy trình kiểm dịch thịt động vật ở Việt Nam
Không chỉ Việt Nam, mà nhiều nước kém phát triển khác ở châu Phi,
Nam Á, cũng ăn thịt thú rừng. Thậm chí, ngay cả quốc gia có nền kinh
tế, giáo dục, y tế phát triển như Mỹ, Canada, châu Âu, Nhật Bản... cũng
tiêu thụ một số lượng lớn thịt rừng. Tuy nhiên có sự khác biệt lớn trong
cách săn bắn và tiêu thụ thịt rừng ở châu Âu so với Việt Nam, bao gồm
cả mục đích săn bắn, các loài được phép săn bắn và quan trọng hơn là quy
trình kiểm dịch nghiêm ngặt, hạn chế tối đa khả năng lây bệnh cho người
và lan ra cộng đồng.
Thịt rừng ở Việt Nam thường được dân buôn thu gom từ nhiều nguồn. Người
ta sử dụng các chất hoá học để chống thối rữa, đông lạnh rồi sau đó mới
chuyển đến các nơi tiêu thụ. Nó không còn là đặc sản nữa mà là một loại
thực phẩm lạ chưa qua kiểm dịch. Người ăn chắc chắn sẽ không tránh khỏi
các loại chất độc hoá học đã ngấm vào từng miếng thịt được ướp đủ thứ
gia vị để giấu đi mùi thật.
Nguy hiểm hơn, dù vẫn còn có tranh cãi trong giới khoa học, chúng ta
không thể phớt lờ các bằng chứng cho thấy mối liên quan giữa việc ăn
thịt thú rừng, nhất là ăn theo kiểu sống-tái-nội tạng, với nguy cơ nhiễm
các loại bệnh chưa từng biết đến, một số bệnh lại có khả năng lây lan
rất cao, dẫn đến đại dịch khu vực hoặc thậm chí toàn cầu. Ebola, SARS,
H5N1 là ví dụ.
Vì vậy, việc sử dụng thịt rừng một cách bừa bãi không chỉ ảnh hưởng đến
sức khỏe của người trực tiếp tiêu thụ mà còn có nguy cơ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khoẻ cộng đồng.
Từ thực trạng trên, Việt Nam cần tăng cường thực thi pháp luật để
hạn chế, tiến đến kiểm soát được tình trạng săn bắn, vận chuyển, mua
bán, tiêu thụ thịt và các sản phẩm từ động vật hoang dã, đặc biệt là các
loài nguy cấp, quý hiếm là yêu cầu đã được nhắc đi nhắc lại rất nhiều
lần.
Mọi người đừng góp phần biến rừng Việt Nam thành 'rừng lặng', hay để nó là nơi phục hồi sự sống. Nếu
bạn là người có thói quen sử dụng động vật hoang dã, và nếu bạn chưa
sẵn sàng để nghĩ đến những lợi ích thiên nhiên, thì ít nhất bạn hãy nghĩ
đến sức khỏe của chính bạn và những người xung quanh.
Trần Lê Trà
Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (WWF)
Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (WWF)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét