——–
Thuật lại việc tác giả Tinh Tra Thắng Lãm
cùng Thái giám Trịnh Hoà tuần du phương nam, đi qua vài vùng đất Việt
Nam hiện nay; nhân phản bác lập luận Trung Quốc cho rằng Trịnh Hoà từng
đến đảo Trường Sa.
Phí Tín, tác giả Tinh Tra Thắng Lãm
[星槎勝覽], đảm nhiệm chức Thông sự [Phiên dịch], theo phái đoàn Trịnh Hoà
bốn lần xuống Tây dương. Từng đi qua các quốc gia tại Đông Nam Á và Ấn
Độ Dương; trong đó có 5 vùng thuộc lãnh thổ Việt Nam hiện nay, như Chiêm
Thành, Linh Sơn [Phú Yên], Tân Đồng Long [Phan Rang, Bình Thuận], Thuỷ
Chân Lạp [Nam phần], và Côn Đảo. Phí Tín mượn huyền thoại thời thịnh trị
vua Nghiêu, ban đêm ngoài biển hiện lên chiếc bè [tra] có đèn thắp sáng
như sao [tinh] dùng cho nhan đề sách; nên “Tinh Tra Thắng Lãm”
có thể hiểu là Cuộc du ngoạn thắng cảnh trong thiên hạ bằng thuyền dưới
thời thịnh trị. Bốn chuyến viễn hành ông tham gia, khởi đầu từ các năm:
Vĩnh Lạc thứ 7 [1409], Vĩnh Lạc thứ 10 [1412], Vĩnh Lạc thứ 13 [1415],
và Tuyên Đức năm thứ 6 [1431]. Trải qua hơn 20 năm lịch lãm về phong
tục, địa thế, nhân vật nơi đất lạ; tác giả đem những điều mắt thấy tai
nghe viết thành sách, hoàn thành vào năm Anh Tông Chính Thống thứ nhất
[1436]; sách gồm 2 tập, đề cập đến 44 nước. Riêng những vùng đất liên
quan đến Việt Nam nằm trong tập 1, xin lần lượt dịch như sau:
- Nước Chiêm Thành
Năm Kỷ Sửu Vĩnh Lạc thứ 7 [1409], nhà vua
sai Chánh sứ Thái giám Trịnh Hoà thống lãnh quan binh, sử dụng 48 chiếc
hải thuyền, đến các nước Phiên tuyên đọc ban thưởng. Cùng năm đó, vào
mùa thu tháng 9 xuất phát tại cảng Lưu Gia, huyện Thái Thương [Tô châu,
tỉnh Giang Tô], đến tháng 10 ghé tại cảng Thái Bình, huyện Trường Lạc,
tỉnh Phúc Kiến. Tháng 12, khởi hành tại Ngũ Hổ Môn, Phúc Kiến ra biển,
trương 12 buồm thuận theo chiều gió, hàng hành 10 ngày đêm đến nước
Chiêm Thành.
Đến cửa biển vào cảng Tân Châu [Thị Nại,
Qui Nhơn], nơi này phía tây giáp Giao Chỉ, Bắc tiếp Trung Quốc, bảo
thuyền nước Phiên [Chiêm Thành] đến đón. Viên Tù trưởng đầu dội mũ Kim
hoa dáng nhô lên như 3 ngọn núi, mình quấn khăn gấm hoa văn, tay chân
đều đeo xuyến vàng, chân đi dày đồi mồi, eo thắt dây đai bát bửu, giống
như pho tượng kim cương. Tù trưởng cửi voi; trước sau hộ tống có hơn 500
quân Phiên, hoặc cầm nhận nhọn, doản thương; hoặc múa bài da, hoặc đánh
trống, thổi sáo. Bộ hạ cửi ngựa ra ngoại thành tiếp chiếu thư và phần
thưởng, kính cẩn xuống ngựa, đi bằng đầu gối, cảm động được tắm gội ơn
Thiên tử và phụng cống phương vật.
Nước này sinh sản voi lớn, tê giác, trâu,
rất nhiều; vì vậy nên ngà voi, tê giác, bán rộng ra các nước khác. Có
một núi riêng sản xuất kỳ nam hương, Tù trưởng sai người coi sóc; dân
không được lấy, nếu kẻ nào ăn trộm vật quí này, bắt được bị chặt tay.
Riêng các loại gỗ như ô mộc, giáng hương; dân hạ xuống, chẻ thành củi!
Khí hậu nơi đây thường nóng như mùa hè, không thấy sương tuyết, thảo mộc
tươi tốt quanh năm, có loại khai hoa, có loại tàn tạ. Dân nấu nước biển
làm muối, ruộng lúa rất xấu. Người nước này ăn trầu với cau bao bởi lá
trầu quệt vôi lấy từ vỏ sò; ăn liên miên, lúc đi, lúc đứng, khi ngồi,
khi nằm, không ngớt trong mồm. Cách định ngày, tháng; khi trăng non mới
mọc là ngày đầu trong tháng, trăng lặn là ngày cuối; như vậy cứ 10 lần
trăng mọc, trăng lặn là 1 năm. Ngày đêm chia làm 10 canh, dùng phép đánh
trống báo mỗi canh.
Tù trưởng và dân thường ngủ chưa đúng Ngọ
[12 giờ trưa] chưa dậy, đêm chưa đến giờ Tý, chưa đi ngủ; trăng lên thì
uống rượu, ca hát làm vui. Tù trưởng sống trong nhà cao rộng, tường cửa
xây bằng gạch nung, cùng gỗ cứng, trang sức bằng chạm khắc hình thú
vật; chung quanh nhà xây tường gạch. Về vũ bị có thành quách, quân lính
luyện tập chu đáo, vũ khi có tên tẩm thuốc độc, các loại gươm giáo. Nơi
cư trú của bộ hạ cũng phân đẳng cấp, cửa cao tuỳ hạng. Dân dùng cỏ lợp
nhà, cửa không cao quá 3 xích; kẻ làm quá qui định sẽ bị tội.
Cả nước dùng thức ăn, cá chưa thối chưa
ăn, tương chưa sinh dòi chưa cho là tốt. Làm rượu đổ gạo và men vào
trong ủng, bịt kín để lâu, chờ khi bã rượu sinh dòi. Lúc mở ra, dùng ống
trúc dài khoảng 3, 4 xích cắm vào ủng; 5, 10 người ngồi xung quanh, tuỳ
theo số người uống mà đổ nước vào nhiều hay it; thay phiên hút rượu từ
ống trúc vào miệng, nếu hết nước thì đổ thêm, đến khi không còn vị rượu
thì bỏ; nếu còn vị, thì có thể để dành lần sau uống tiếp. Tù trưởng
thường năm chọn mật người sống ngâm vào rượu, cho người nhà cùng uống,
lại tắm trên người để được “can đảm cùng mình” [thông thân thị đảm
通身是膽].Tương truyền có ma thi đầu, hình dáng một người đàn bà, chỉ khác
là mắt không có con ngươi. Người đàn bà này cùng sống với gia đình, đêm
đầu bay đi, ăn phân người, rồi trở về hợp đầu vào thân thể sống như cũ.
Nếu như bịt cổ lại, hoặc dời thân đi chỗ khác sẽ chết. Trường hợp người
bệnh bị ăn phân, yêu khí nhập vào, ắt phải chết. Loại này cũng ít thấy,
dân gian biết mà không báo quan, bị trừng phạt cả nhà. Dân Phiên rất quí
trọng cái đầu, nếu ai xúc phạm đầu, sẽ liều sinh tử để rửa hận.
Trai gái búi tóc phía sau ót, đầu chít
khăn vải hoa, khoác áo ngắn, eo lưng quấn khăn có màu sắc. Nước này
không có giấy, dùng da dê căng mỏng ra thui đen, lấy trúc tước ra làm
bút, chế vôi làm mực viết lên. Gặp trường hợp khúc mắt, ngôn ngữ xa
cách, toàn dựa vào Thông sự phiên dịch.
Lời bàn:
Theo Minh Thực Lục, Quốc
vương Chiêm Thành lúc bấy giờ là Chiêm Bà Đích Lại; cũng vào giai đoạn
này Việt Nam bị quân Minh đô hộ, không còn gì để ngoại giao; nên nước
đầu tiên phái đoàn Trịnh Hoà đến phương nam là Chiêm Thành. Vị trí Chiêm
Thành coi như trục bánh xe, nơi chuẩn bị hành trình để toả rộng ra các
nước Đông Nam Á. Tác giả Phí Tín, với nhiệm vụ Thông sự [Thông dịch
viên], tiếp xúc nhiều với dân bản xứ, dựa vào những điều tai nghe mắt
thấy, cung cấp rất nhiều tư liệu quí báu. Về triều đình Chiêm Thành, tác
giả lưu ý đến cách ăn mặc và nghi vệ của Quốc vương; thành quách, binh
bị, cách phòng thủ, cùng đẳng cấp xã hội qua hình thức xây dựng nhà ở.
Về văn hoá, mô tả lịch pháp, cách định tháng, năm, ngày giờ; viết chữ
lên da dê thay giấy. Tác giả chú ý sinh hoạt hàng ngày của dân chúng;
giờ thực dậy, giờ ngủ; thú vui ca hát lúc trăng lên, tụ tập uống rượu
cần, thói quen ăn trầu liên miên. Lại nêu lên những nét khái quát về
kinh tế, như trên rừng nhiều gỗ quí, lắm thú lạ được bán sang các nước
khác; nhưng ruộng lúa thì xấu.
2. Linh Sơn
Xứ này đối với Chiêm Thành mạch núi liên
tiếp; núi cao mà vuông, có suối chảy xung quanh như dây đai, Trên đỉnh
núi có một khối đá, giống như hình Phật, nên có tên là Linh Sơn. Dân cư
phân tán, làm nghề đan võng; ruộng tốt, mỗi năm trồng trọt, thu hoạch 2
mùa. Nói chung khí hậu và lễ tiết trai gái cũng gần giống Chiêm Thành.
Vùng này sản xuất cây mây có văn đen dùng làm gậy; mỗi cây gậy có thể
đổi 1 khối thiếc; nếu thô lớn, văn thưa, thì 3 cây đổi 1 khối. Còn có
cây trầu, cau, lão diệp [một loại hồ tiêu]; ngoài ra không có sản phẩm
gì khác. Các thuyền buôn qua lại phái ghé nơi này lấy củi và nước, cho
nhu cầu hàng ngày. Người trên thuyền thường ăn chay tắm rửa 3 ngày, kẻ
sùng Phật tụng kinh, thả thuyền giấy cắm đèn, để cầu mong thuyền tránh
tại hoạ.
Lời bàn:
Xứ Linh Sơn liên tiếp mạch núi với Chiêm Thành tức thành Đồ Bàn [Qui Nhơn], sách Đông Tây Dương Khảo
của Trương Tiếp cho biết từ Tân Châu [Thị Nại, Qui Nhơn] đi đường thuỷ
quanh co qua 7 canh [khoảng 200 km] đến Linh Sơn. Xét khoảng cách và vị
trí có thể phỏng định vùng này thuộc thị xã Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên ngày
nay.
3. Nước Tân Đồng Long
Nước này với Chiêm Thành mạch núi liên
tiếp, có 2 khe, nước trong xanh. Sách Phật chép khất thực tại Xá Vệ tức
tại nơi này; nơi Mục Liên ở di chỉ vẫn còn. Nhân vật, đất đai, cây cối,
thảo mộc phần lớn giống Chiêm Thành. Duy đám tang vẫn chít khăn sô, cúng
Phật cầu cứu độ, chọn đất hoang vắng chôn cất; trai gái quen nhau kết
hôn. Tù trưởng ra vào, cửi voi hoặc ngựa; cũng giống như Vương Chiêm
Thành. Tuỳ tùng hơn 100 người hộ vệ trước sau; kẻ cầm thuẩn, kẻ tung hô,
được gọi là á, là bộc. Đất sản xuất kỳ nam hương, ngà voi; trao đổi
hàng hoá dùng vàng, bạc, vải bố; dân thường dùng cỏ tranh lợp nhà.
Lời bàn:
Nước này tại phía nam cùng chung mạch núi
với Chiêm Thành, tức phía nam dãy Trường Sơn; các nhà nghiên cứu cho
rằng vị trí thuộc 3 tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay. Tuy
là quốc gia riêng, nhưng Tân Đồng Long từ lâu vẫn lệ thuộc Chiêm Thành;
thời Tống, Nguyên, Minh thường sai sứ sang cống Trung Quốc. Về phong
tục nước này có phần khác với Chiêm Thành, tang lễ theo nghi thức Nho
giáo, thân nhân chết chít khăn sô.
4. Nước Chân Lạp
Từ Chiêm Thành thuyền thuận theo gió, 3
ngày đêm đến Chân Lạp. Phía nam là nơi đô hội, thành trì chu vi rộng 70
lý, sông có bờ đá rộng 2 trượng, cung điện trên 30 sở. Hàng năm có một
lễ hội trưng bày la liệt trước vườn như vượn ngọc, chim công, voi trắng,
tê giác, trâu, gọi là Bách Tháp Châu; thứ đến Tang Hương Phật Xá. Yến
tiệc thì đồ ăn để trong mâm vàng, bát vàng; vì vậy ngạn ngữ có câu “Phú quí như Chân Lạp”.
Khí hậu thường nóng, ruộng lúa sung túc, nấu nước biển làm muối, phong
cách giàu có. Trai gái búi tóc, mặc áo ngắn, hông quấn vải bố. Phép trị
tội hình cắt mũi, thích vào da, hoặc đi đày; ăn trộm bị chặt tay, chân.
Người Phiên giết người Đường [Trung Quốc] phải thường mệnh; người Đường
giết người Phiên cho chuộc bằng vàng, không có vàng thì lấy thân chuộc
tội. Đất sản xuất sáp vàng, tê giác, voi, chim công, trầm hương, tô mộc,
dầu đại phong tử [Chaulmoogra seed oil], thuý mao. Hàng hoá trao đổi
bằng vàng bạc, châu ngọc, gấm, các loại tơ, vải bố.
Lời bàn:
Nước Chân Lạp xưa chia làm 2 phần: Lục Chân Lạp, Campuchia hiện nay; và Thuỷ Chân Lạp tức miền nam Việt Nam. Trong Tinh Tra Thắng Lãm,
Phí Tín mô tả thành trì tại phía nam, tức Thuỷ Chân Lạp. Tác giả cho
biết ruộng lúa sung túc, hình dung vựa ruộng lúa miền nam Việt Nam; còn
câu nói “ Phú quí như Chân Lạp” cũng là hình ảnh công tử Bạc
Liêu vào đầu thế kỷ thư 20. Lúc bấy giờ đã có án lệ về việc xử người
Trung quốc hoặc dân bản xứ giết người, chứng tỏ thời Minh đã có nhiều
người Trung Quốc đến đất này buôn bán.
5. Núi Côn Lôn
Núi này đứng giữa biển rộng, làm tiêu
chuẩn cho Chiêm Thành, Đông Tây Trúc [Pulau Aur] cùng nhìn vào, núi cao
mà vuông, gốc rễ sơn mạch rộng và xa, biển này gọi là biển Côn Lôn. Phàm
thuyền bè đến Tây Dương phải chờ lúc thuận gió, đi 7 ngày đêm có thể
qua nơi này. Tục ngữ rằng “Phía trên thì sợ Thất Châu, phía dưới thì sợ Côn Lôn, cầm lái sai hướng, người và thuyền không còn.” Núi này không có vật lạ, không có nhà ở; nhưng có thể dùng cá, tôm, trái cây để ăn, sống trên cây hoặc trong hang.
Lời bàn:
Hầu như mọi chuyến hàng hải từ Trung Quốc
xuống Đông Nam Á vào thời Thanh trở về trước đều lấy núi Côn Lôn làm
chuẩn; Côn Sơn với đỉnh cao 577mét, giúp tàu thuyền có thể thấy được từ
xa. Sách Dông Tây Dương Khảo [東西洋考] của Trương Tiếp chỉ rõ hướng đi và thời gian đến như sau :
Từ Xích Khảm Sơn [Phan Rang] theo hướng đơn Mùi [210 độ], thời gian 15 canh đến núi Côn Lôn. Ðây không phải địa danh Côn Lôn trên nguồn sông [chỉ núi Côn Lôn tại Trung Quốc], mà chính là thắng cảnh Côn Lôn trên biển cả.
Vị trí Côn Lôn hay Côn Đảo cả thế giới đều biết, nhưng những cây bút Trung Quốc viết theo đơn đặt hàng, như nhóm biên soạn Ngã Quốc Nam Hải Chư đảo Sử Liệu Hối Biên [我國南海諸島史料滙编] đã không ngượng bút, dám chú thích rằng:
Núi Côn Lôn, biển Côn Lôn; chỉ Nam Sa quần đảo cùng khu vực hàng hải nguy hiểm xung quanh. (1)
Vì các phái đoàn đi sứ và các thương
thuyền thời xưa chỉ đi qua Côn Lôn mà thôi, chứ chưa từng đến Nam Sa
[Trường Sa]; nên một số nhà nghiên cứu Trung Quốc cố tình gán cho Côn
Lôn là Trường Sa, để chứng tỏ các phái đoàn như Trịnh Hoà đã từng qua
đó. Nhưng qua thực tại, và những điều mô tả trong Tinh Tra Thắng Lãm nêu trên, đã chứng minh ngược lại:
-Thực tế cho biết quần đảo Trường Sa được chia thành ba mực địa hình theo độ cao, gồm 0,5-1,5 m; 2,0-3,5 m và 4,5–6 m; còn Tinh Tra Thắng Lãm mô tả “ Núi cao mà vuông. Có thể làm tiêu chuẩn cho Chiêm Thành và Đông Tây Trúc [Pulau Aur] cùng nhìn vào nhau”. Rõ ràng đây là chỉ Côn Đảo với chiều cao 577 mét, chứ không thể chỉ Trường Sa thấp lè tè với diểm cao nhất chỉ có 6 mét.
-Hạm đột Trịnh Hoà với 48 hải thuyền, chở
mấy vạn quân, chạy bằng buồm; thời xưa không có radar, phài dò nơi nước
sâu mà đi, không thể liều lĩnh chạy vào vùng nước cạn có nhiều san hô
như quần đảo Trường Sa.
Cũng cần nhấn mạnh thêm, ngay cả Học giả Trung Quốc Đàm Kỳ Tương (2), trong tác phẩm Nam Hải Chư Ðảo Sử Ðịa Khảo Chứng Luận Tập cũng xác nhận rằng qua sử chí xưa, không có cơ sở để gán cho Côn Lôn là quần đảo Trường Sa.
——–
Chú thích:
1.Ngã Quốc Nam Hải Sử Liệu Hối Biên trang 53-54.
2.Ðàm Kỳ Tương, Nam Hải Chư Ðảo Sử Ðịa Khảo Chứng Luận Tập, trang 1-7.
Hồ Bạch Thảo.
Tác giả gửi đến Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét