Trong
lịch sử khẩn hoang ở Nam bộ, sự đóng góp của người Minh Hương và người
Hoa từ xưa đến nay về kinh tế, văn hóa thật là to lớn. Bao nhiêu danh
nhân Việt nam trong lịch sử có gốc Minh Hương, từ Trịnh Hoài Đức, Ngô
Nhân Tịnh, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản, Phan
Xích Long… đến những nhân vật có tên tuổi trong văn hóa nghệ thuật gần
đây như Hồ Dzếnh, Trịnh Công Sơn, Vương Hồng Sển, Lý Lan. Họ đã hòa nhập
thành người Việt.
Đã có nhiều tư liệu viết về Mạc Cửu và
xứ Hà Tiên, với văn học Hà Tiên độc đáo, đỉnh cao của người Minh Hương
đến khai khẩn Nam bộ. Bài viết chú trọng về người Minh Hương và người
Hoa ở những vùng khác trên Nam bộ, chủ yếu là vùng Đồng Nai-Gia Định.
Những nhân vật tiên phong khai phá
Ngoài Hà Tiên, thì nơi phát triển đầu
tiên của người Minh Hương là xứ Đồng Nai, gồm Cù lao Phố, Biên Hòa, Bến
Nghé-Chợ Lớn. Nông Nại đại phố tức là Chợ Lớn của xứ Đồng Nai. Đồng Nai
âm theo tiếng Quảng Đông là Nông Nại.
Một trong những người đến cùng thời với
Trần Thượng Xuyên hay còn gọi là Trần Thắng Tài là ông nội của Trịnh
Hoài Đức từ tỉnh Phúc Kiến. Trong miếu Quan Đế ngày nay, ông có tên
trong danh sách những người sáng lập ra miếu này ở Cù lao Phố năm 1684.
Miếu Quan Đế Chùa Ông hiện nay vẫn còn và là miếu thờ cổ nhất ở Nam bộ.
Cha của Trịnh Hoài Đức sau đó cũng góp công vào hương khói của chùa Quan
Đế.
Trịnh Hoài Đức lúc thiếu thời học với Võ Trường Toản. Tư liệu quí giá và phong phú nhất về lịch sử khai khẩn Nam bộ là quyển Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Trong đó, Trịnh Hoài Đức viết về Cù lao Phố như sau:
“Nông Nại (tức
Đồng Nai) đại phố, lúc đầu do Trần Thượng Xuyên khai phá, tức Trần Thắng
Tài chiêu tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết phố xá mái ngói tường
vôi, lầu cao, quán rộng, dọc theo bờ sông liên lạc dài 5 dặm, chia và
vạch làm 3 đường phố, đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá
ong, đường phố nhỏ lát gạch xanh, đường rộng bằng phẳng, kẻ buôn tụ
tập, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến đậu, ấy là một chỗ đại đô hội
mà những nhà buôn bán giàu có ở đây là nhiều nhất hơn thảy những nơi
khác”.
Cù lao Phố trở thành một cảng quan trọng
đầu tiên của Nam bộ, đón nhận thương thuyền nước ngoài, hưng thịnh suốt
khoảng 90 năm từ khi Trần Thượng Xuyên đến với quân đội, suy thoái từ
khoảng 1775, tức là khoảng sau 90 năm, để nhường cho Chợ Lớn, Bến Nghé
Sài Gòn sau này. Trước khi Trần Thượng Xuyên được chúa Nguyễn đưa đến cù
lao Phố, đã có người Việt từ miền Trung đến ở núi Dinh (Mô Xoài) vùng
Bà Rịa từ năm 1658 và vùng Long Thành. Nhờ vậy, khi Trần Thượng Xuyên
đến cù lao Phố đã có dân Việt, dĩ nhiên người dân tộc như người Mạ,
người Khmer, Chăm cũng tới lui trao đổi hàng hóa.
Trần Thượng Xuyên đến mang theo gia đình
cùng với quân sĩ , nhiều binh sĩ này vẫn tiếp tục cầm vũ khí theo đuổi
binh nghiệp nhưng một số lập nghiệp tại vùng đất mới. Sau một thời gian,
thêm một số cư dân và thương gia đến sau, với vốn liếng để lập chợ. Cù
lao Phố trở thành cảng sầm uất xuất nhập khẩu, với kho dự trữ hàng hóa
nhập vào và dự trữ hàng hóa thâu mua từ nhiều nguồn của cư dân sống
trong vùng Đồng Nai như lâm sản, ngà voi, nai, heo rừng, sừng tê giác…
Nguyễn Hữu Cảnh, do chúa Nguyễn gởi vào
sau này để cai quản vùng đất mới, đến Cù lao Phố ngay lúc cù lao với
cảng đang hưng thịnh, nhưng trụ sở hành chánh và đồn binh đặt ở Sài Gòn.
Ông Nguyễn Hữu Cảnh vào cù lao Phố với thủy quân. Khi ông mất ở Rạch
Gầm, quan tài được đưa về Cù lao Phố, rồi từ đấy về miền Trung theo
đường thủy, chôn ở quê ông là Quảng Bình. Chứng tỏ Cù lao Phố lúc đó là
cảng quan trọng, sầm uất nơi cập bến của tàu bè khi đi và đến Đồng Nai,
cửa ngõ của Nam bộ. Hiện nay ở Cù lao Phố còn đền thờ mộ tượng trưng của
Nguyễn Hữu Cảnh, do dân chúng thiết lập để nhớ ơn ông.
Cù lao Phố bắt đầu suy thoái khi lưu dân
xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long càng nhiều, biến vùng Mỹ Tho và các
vùng phụ cận thành nơi sản xuất lúa gạo, cây trái, thủy sản lớn nhất của
miền đất mới Gia Định – Đồng Nai. Hơn nữa Cù lao Phố thiếu hàng hóa đưa
ra ngoài vì lâm sản dần dần ít đi và không còn là sản phẩm chính cần ở
thị trường. Nhiều thương gia lần dời xuống Sài Gòn-Chợ Lớn để mua bán.
Nguồn lúa gạo dồi dào của đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu dư để xuất đi
nhiều nơi ở Đàng Ngoài và nhiều nơi khác, mà lúa gạo là nhu yếu phẩm
chính.
Cù Lao Phố tàn lụi và chấm dứt khi quân
Tây Sơn do Nguyễn Nhạc đến tấn công, đốt phá phố cù lao và giết rất
nhiều người Minh Hương trong vùng. Đại Nam nhất thống chí ghi rõ quân
Tây Sơn đến “dỡ lấy hết nhà cửa, gạch đá của cải chở về Quy Nhơn, từ
đời Gia Long trung hưng tuy người ta có trở về, nhưng trăm phần chưa
được một”. Những người sống sót đều chạy xuống vùng Bến Nghé và Chợ
Lớn lập phố xá và chợ mới gần chợ Tân Kiểng. Từ đó Chợ Lớn càng trở nên
phát triển hơn và là trung tâm thương mại ở Gia Định và miền Nam.
Thương thuyền khắp nơi vào buôn bán và chở sản phẩm như lúa gạo đi các
vùng và các nước như Trung Quốc và Mã Lai.
Năm 1822, khi người Anh ỏ Bengal (Ấn Độ)
và Singpapore gởi ông John Crawfurd vào Gia Định gặp Tổng trấn Lê Văn
Duyệt để tìm hiểu về thương mại, Crawfurd có viết về Chợ Lớn lúc đó gọi
là Sài Gòn và Bến Nghé như sau:
“..Đây là lần
đầu tiên tôi tới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bất ngờ
thấy rằng nó không thua gì kinh đô nước Xiêm. Về nhiều mặt trông nó còn
sầm uất hơn, không khí mát mẻ hơn, hàng hóa phong phú hơn, giá cả hợp lý
hơn và an ninh ở đây rất tốt, hơn nhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi
qua. Tôi có cảm giác như đây là một vương quốc lý tưởng […] Dinh Tổng
trấn khá đồ sộ và uy nghiêm. Các thành trì nằm ở bờ sông An Thông hà.
Nơi đây buôn bán sầm uất. Dân xiêu tán tới đây được Tổng trấn cho nhập
hộ tịch, qua một hai đời đã trở thành người Gia Định. Đông nhất nơi đây
là dân Trung Hoa. Các dân tộc nơi đây được nhà nước bảo hộ và họ đều có
nghĩa vụ như nhau. Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành.
Trộm cướp không có. Người ăn mày rất hiếm. Tổng trấn rất nhân từ, tha cả
bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với
bọn cố tình không chịu quy phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép
nước được tôn trọng như ở đây […] Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa
gạo, ngà voi, sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp.”
Cũng theo Crawfurd thì ở Chợ Lớn nhà cửa
của thương gia Trung Hoa đồ sộ hơn nhà cửa của người Việt nhiều. Đang
khi John Crawfurd đi thơ thẩn, ba gia đình Trung Hoa loại khá giả nhất
đã ra cửa mời ông vào chơi.
Nếu cảng Cù lao Phố vẫn còn thì đây là
khu phố cổ thương mại thứ hai ở Việt Nam sau phố cổ Hội An, được thành
lập với sự đóng góp lớn của người Hoa. Cách đây 14 năm (1993), mộ tướng
Trần Thượng Xuyên được khám phá nằm ở Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, cạnh
hữu ngạn sông Đồng Nai, mà tôi có dịp đến thăm. Đình Tân Lân ở thành phố
Biên Hòa, cạnh cù lao Phố, là nơi thờ tướng Trần Thượng Xuyên có sắc
phong của vua Minh Mạng. Được xếp hạng là một di tích lịch sử văn hóa.
Đình ở vị trí rất đẹp, trước măt đền là sông Đồng Nai với cây cổ thụ lớn
ngay cạnh sông. Tân Lân là tên gọi của vùng bên phía chợ Biên Hòa nơi
tướng Trần Thượng Xuyên xưa kia đóng quân, sử ghi là xứ Bàn Lân, sau đổi
là Tân Lân. Bàn Lân có thể là do chữ Bằng Lăng nói trại ra. Cây bằng
lăng là cây bản địa, mọc rất nhiều trước đây trong vùng Đồng Nai và Gia
Định. Hiện nay cây bằng lăng còn có thể tìm thấy trong các rừng còn lại ở
Đông Nam bộ (như rừng Cát Tiên) và một vài tỉnh ở Tây nguyên (Lâm Đồng,
Dak Lak).
Văn hóa người Minh Hương
Có thể thấy được sinh hoạt văn hóa sinh
động của người Hoa trước đây và hiện nay thì không có gì hơn là đến khu
Chợ Lớn. Tôi đi cùng với một người bạn gốc Hoa vào Chợ Lớn thăm viếng
các nhà văn hóa người Hoa. Trong Nhà truyền thống góc đường Triệu Quang
Phục và Nguyễn Trãi (xưa gọi là đường Cây Mai) thường có triễn lãm và
các hình ảnh xưa ở Chợ Lớn cùng các sản phẩm mỹ thuật. Nhà Truyền thống
trước đây là nhà hát Tam Đa của người Hoa trong vùng. Cạnh nhà truyền
thống ở số 137 đường Triệu Quang Phục là trụ sở Hội Văn học Nghệ thuật
các dân tộc, chủ yếu là của người Hoa. Trụ sở là Hội quán của chùa bà
(Thiên Hậu) cho mượn. Chùa Thiên Hậu nằm ở góc đường Nguyễn Trãi và
Triệu Quang Phục. Đường Triệu Quang Phục xưa là đường Canton (Quảng
Đông) trong thời Pháp và là trung tâm Chợ Lớn. Phim “Người Tình”, phỏng
theo tự truyện ‘L’Amant‘ của nhà văn nữ Pháp Margurette Durras, được
quay ở đường này. Nhà Xã Tây ở cạnh đây (gọi là Xã Tây vì là tòa nhà
hành chính của Pháp chuyên lo chuyện nhập, xuất cảnh và giấy tờ). Vùng
này ngày xưa cũng được gọi là Minh Hương xã.
Anh Trần Đại Tân, người Triều châu, quê ở
Sóc Trăng là người biết nhiều về lịch sử người Minh Hương ở Nam bộ. Anh
Tân tặng tôi quyển sách của anh viết về người Hoa ở Nam bộ. Nói chuyện
về các địa lý và phố xưa cũng như các người Hoa danh tiếng trong lịch sử
và hiện nay, như Trần Thành trước đây và Lý Ngọc Minh hiện nay. Hoạt
động của Hội gồm hội họa, thư pháp, nhiếp ảnh, xuất bản văn học. Ngoài
ra còn có ban bảo trợ văn hóa người Hoa, với chi hội ca múa nhạc có trụ
sở là nhà văn hóa Quận 5, gần Đại Thế giới, đường Trần Hưng Đạo.
Từ hội quán, chúng tôi đi bộ đến thăm
chùa Thiên Hậu do người Hoa Quảng Đông xây dựng, rất nhiều du khách nước
ngoài viếng thăm. Kiến trúc chùa rất đẹp với các tượng trên nóc, mái
chùa bằng sành sứ rất công phu và các tranh khắc trên tường là những
tuyệt tác rất trang nhã của nghệ thuật người Hoa. Cạnh chùa Thiên hậu là
đền Tam Sơn, trên đường Triệu Quang Phục, của người Phúc Kiến (Phúc
Châu), nơi đây thờ Ngọc Hoàng, Quan âm, Quan công.., không có chữ quốc
ngữ chỉ có chữ Hán trong và ngoài đền. Theo anh Tân, thì kế bên đền Tam
Sơn, xưa kia có Thất phủ cổ miếu, nhưng đã bị phá đi, hiện nay là xí
nghiệp in, chỉ còn lại một bức tường. Đây là một mất mát văn hóa to lớn.
Đến Đình Minh Hương Gia Thạnh trên đường
Trần Hưng Đạo, gặp lại bác Vương Quang Tâm, hiện nay là người cai quản
đình mà năm trước tôi có đến. Đình là tòa nhà cổ nhất Sài Gòn, xây năm
1789, được công nhận là một di tích lịch sử. Năm 1698, ở vùng này đã
hình thành nên làng Minh Hương ở Gia Thạnh, làng Minh Hương còn để lại
câu ca dao
Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự cho bằng làng Minh Hương.
Đố ai lịch sự cho bằng làng Minh Hương.
Lần trùng tu cuối cùng của đình là vào
năm 1921. Trong đình, bên phải thờ Trần Thượng Xuyên (có 2 di ảnh tướng
Trần Thượng Xuyên) và Nguyễn Hữu Cảnh, bên trái thờ Trịnh Hoài Đức và
Ngô Gia Tịnh. Cạnh đó là 1 chuông đồng do vua Minh Mạng tặng, với sắc
phong và chuyển tên từ làng thành đình. Chuông được gióng một năm một
lần vào ngày 16/1. Sau chánh điện là sân rất rộng gọi là Thiên Quang
Tỉnh (giếng trời). Đình Minh Hương Gia Thạnh cũng là nơi tề tựu, gặp gỡ
của nhóm Bình Dương thi xã, sáng lập bởi Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh,
Lê Quang Định, với nhiều nhân sĩ đến đây để ngâm thơ, xướng họa vào cuối
thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19.
Chùa Giác Lâm là ngôi chùa thuộc loại
xưa nhất Sài Gòn. Chùa nằm ở Phú Thọ Hoà kế quận 5 (nay là đường Lạc
Long Quân, quận Tân Bình), vẫn còn giữ nguyên không thay đổi nhiều sau
bao năm từ lúc thành lập. Chùa được cư sĩ người Minh Hương tên là Lý
Thụy Long xây dựng vào năm 1744 ở vùng thanh vắng nhiều cây cối không xa
chùa Cây Mai và Gò cây mai, một nơi thanh lam thắng cảnh của Gia Định
mà Gia Định thi xã của Trịnh Hoài Đức thường hay nhóm họp làm thơ. Lý
Thụy Long có tên riêng là Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán nên người địa
phương gọi là ông Cẩm Đệm. Vì thế chùa còn có tên là Cẩm Sơn, Sơn Can
hay Cẩm Đệm. Năm 1772 hòa thượng Viên Quang tới trụ trì, từ đó mới đổi
tên chùa là Giác Lâm. Khi xưa lúc chùa được xây dựng như một cái am, xa
cư dân, rất thanh vắng, cây cối rậm rạp, thích hợp cho sự tu dưỡng, tu
hành. Trong quyển Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã miêu tả
cảnh chùa như sau: “Chùa toạ lạc trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy
Bán Bích ba dặm…, cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói
nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhã thú!…” Chùa hiện nay được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Nghề làm gốm là nghề tiểu công nghiệp
lâu đời, bắt đầu từ khi người Minh Hương đến định cư ở xứ Đồng Nai. Hiện
nay ở tỉnh Đồng Nai và Bình Dương, đa số các chủ lò gốm là do người
Việt gốc Hoa, hay Minh Hương đảm trách. Họ đã làm nghề này cha truyền
con nối bao nhiều đời cho đến nay. Đây là hai trung tâm gốm sứ lớn nhất
Nam bộ với nhiều thợ, nghệ nhân người Hoa. Vào thế kỷ 18, đã tồn tại một
trung tâm gốm sứ mang tên Xóm Lò Gốm ở vùng quận 8, Thành phố Hồ Chí
Minh (phía Chợ Lớn) (Xem bài: Những dấu tích thăng trầm của xóm Lò Gốm Sài Gòn xưa).
Xung quanh vùng này còn có nhiều địa danh như Lò Rèn, Xóm Lò Siêu, xóm
Lò Gạch… Địa bàn xóm Lò Gốm xưa khá rộng, gồm các làng Hòa Lục (quận 8),
Phú Định-Phú Lâm (quận 6), Phú Giáo-Gò Cây Mai (quận 11) trải dài đôi
bờ kênh Ruột Ngựa, kênh-rạch Lò Gốm. Những con kênh này là tuyến đường
giao thông chính của khu vực Chợ Lớn, dùng ghe xuồng chở hàng sản xuất
đến các tỉnh miền Tây.
Gốm vùng Sài Gòn-Gia Định-Đồng Nai ở thế
kỷ 18,19 và 20 nổi tiếng có đặc thù riêng và nổi tiếng tốt mà nhiều nhà
văn hóa sử, khảo cổ trước đây gọi là gốm “Cây Mai” (được biết đến qua
những gốm xưa tìm được ở gò Cây Mai và khu vực đường Cây Mai, Chợ Lớn)
nay được xếp loại và gọi chung là gốm Biên Hòa, Sài Gòn. Ngày nay chỉ
còn lại di tích lò gốm Hưng Lợi thuộc làng Hòa Lục (phường 16 quận 8),
gần làng Phú Định, nằm ven kênh Ruột Ngựa, của xóm Lò Gốm xưa. Cuộc khai
quật năm 1997-1998 đã tìm thấy tại đây phế tích 3 lò gốm, trên một gò
lớn chứa đầy mảnh gốm của các loại lu, khạp, siêu, chậu… Ngày nay những
nơi còn tiếp tục truyền thống gốm cổ truyền của người Hoa hiện nay còn
rõ nhất ở những lò làm lu gốm ở Biên Hòa hoặc ở khu vực Q.9 TPHCM (Thủ
Đức cũ, gần Công viên Văn hóa dân tộc đang xây dựng), và một số cơ sở
nhỏ sản xuất đồ gốm gia dụng ở vùng Lái Thiêu.
Ảnh hưởng tới ngôn ngữ
Ngoài ra, anh hưởng văn hóa mà người
Minh Hương để lại sâu đậm nhất trong đời sống Nam bộ là ngôn ngữ. Tiếng
Việt miền Nam được lưu dân Minh Hương và Hoa mang vào bổ xung cho tiếng
Việt thêm phong phú. Theo Bình Nguyên Lộc, những từ sau có nguồn gốc
Minh Hương.
Các từ gốc Triều Châu
- Lẩu: Có nguồn gốc từ lẩu là một món canh của Triều Châu, đựng trong một thứ bát đặc biệt bằng Laiton.
- Tía: Chính các chú rể Triều Châu, lưu vong nhà Minh đã đưa ra danh từ Tía vào Nam, và bị ta hiểu là Cha.
- Hên: Do Hưng. Triều Châu đưa vào và họ đọc là Hinh thì đáng lý ta phải viết là Hênh.
- Xui: Tiếng nầy đất Bắc có nhưng vay mượn lâu đời hơn và nói là Xúi Quẩy. Do chữ Suy mà ra, đọc theo Triều Châu, Hên Xui = May Rủi.
- Khổ Tai: Một món ăn khác mà dân miền Nam rất ưa và họ gọi là KHỔ TAI. do người Triều Châu đọc Hô Tai (Hải Táo), một thứ rong biển mà họ nấu với đường để bán cho dân miền Nam ăn.
Các từ gốc Quảng Đông
- Xí Mụi: do Quảng Đông gọi Xíu Mụi, chữ Nho là Tiêu Mai.
- Công xi: Công Ty, do Quảng Đông đưa vào.
- Hủ tiếu: Không biết chữ ra sao, nhưng do Quảng Đông đưa vào, họ nói là Phải, không hiểu sao ta lại biến thành Hủ Tiếu.
- Xíu Mại: Không biết chữ nghĩa ra sao, nhưng đa số các món ăn đều do Quảng Đông đưa vào.
- Chạp Phô: Chỉ là Tạp hóa. Nhưng chính người Quảng Đông lại cho nó cái nghĩa hạn chế là thực phẩm: trứng vịt, tôm khô, cá khô,v.v. còn các cửa hàng bán các thứ khác cũng tạp nhạp lại không được gọi là chạp phô.
- Giò Chá Quảy: Thật đúng là Dầu chá quảy tức con quỷ nướng trong dầu, chỉ loại bánh bột mì chiên mỡ.
- Ly: Cốc bằng pha lê, người Quảng Đông gọi là Pò Lý Púi, tức Pha Lê Bôi, ta nuốt hết, chỉ chừa lại Lý và đọc là Ly.
- Xì Thẩu: Chữ Nho là Sự Đầu, chủ sự, nhưng bị ta hiểu là Ông chủ.
Điều này cho ta thấy miền Nam ban đầu chịu ảnh hưởng nhiều của phong tục, sinh hoạt, tập quán người Minh Hương.
Tác giả: Nguyễn Đức Hiệp
Trích từ bài nghiên cứu “Vài nét về lịch sử của người Minh Hương và người Hoa ở Nam Bộ”
Đăng tải trên vanhoahoc.vn
Theo Sai Gòn chuyện chưa kể
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét