Phần 1
Quốc ngữ là chữ viết chung của dân chúng cả nước. Từ thời Ngô Quyền lập
quốc (939), các triều đại cầm quyền đã mượn chữ Nho (chữ Hán) để sử dụng
trong hành chánh, học thuật. Dầu vậy, người Việt vẫn nói tiếng Việt,
không công nhận chữ Nho là quốc ngữ, và tìm cách sáng tạo ra quốc ngữ
cho riêng mình.
Đầu tiên, người Việt dựa trên chữ Nho để chế ra chữ Nôm. Chữ Nôm được
ghi nhận chính thức xuất hiện vào thế kỷ 13, khi Nguyễn Thuyên, lúc đó
đang là hình bộ thượng thư dưới triều Trần Nhân Tông (trị vì 1279-1293),
làm bài văn “Tế cá sấu” bằng chữ Nôm. Vào thời nầy, chữ Nôm được xem là
quốc ngữ bên cạnh chữ Nho, nên tập thơ chữ Nôm của Chu Văn An (? -
1370) được ông gọi là Quốc ngữ thi tập (Tập thơ quốc ngữ).(1) Tuy
nhiên, chữ Nôm cấu tạo trên căn bản chữ Nho, nên muốn học chữ Nôm thì
phải biết chữ Nho tức chữ Hán.(2) Vì vậy chữ Nôm khó học, không phổ
thông trong dân chúng, và ít được sử dụng.
Từ thế kỷ 17 trở đi, một thứ chữ mới xuất hiện. Nhờ giản dị, dễ sử dụng,
sau ba trăm năm thử nghiệm, thứ chữ nầy càng ngày càng trở nên phổ
thông và biến thành quốc ngữ, mà ngày nay người Việt đang sử dụng.
I. Vì sao xuất hiện Quốc ngữ
Từ thế kỷ 16, các giáo sĩ Ky-Tô Tây phương bắt đầu đến truyền giáo tại
nước ta. Lúc đầu, các giáo sĩ thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, theo các
dòng tu khác nhau, thuộc nhiều giáo phận khác nhau, trong đó đông nhất
là các giáo sĩ Dòng Tên.(3)
Khi đến Đại Việt bằng tàu thuyền, các giáo sĩ đặt chân đầu tiên lên miền
duyên hải. Muốn giảng đạo, các ông không đến rồi đi liền, mà ở lại sống
chung dài hạn lẫn lộn với dân chúng. Muốn thế đầu tiên các giáo sĩ phải
học nói tiếng Việt để giao tiếp hằng ngày. Tập nói để hiểu được người
Việt và làm sao nói cho người Việt hiểu được mình, các giáo sĩ mới có
thể bắt đầu truyền đạo.
Khi truyền đạo, các giáo sĩ không phải chỉ nói, mà còn dùng kinh sách để
giảng giải. Ngoài kinh sách bằng chữ la-tinh, các giáo sĩ có thể sẵn có
Thánh kinh bằng chữ Nho (chữ Hán) do các cơ sở ở Ma Cao cung cấp. [Ma
Cao (Trung Hoa) là nơi các dòng tu Ky-Tô giáo La Mã đặt trụ sở để truyền
đạo vào Trung Hoa và qua Nhật Bản.] Tuy nhiên ít người trong dân chúng
biết chữ Nho, nhất là ở các vùng nông thôn vốn nghèo khổ, ít học.
Vì vậy, để truyền đạo cho người Việt, các giáo sĩ phải viết kinh sách
bằng tiếng Việt. Học nói thì không cần chữ nghĩa, nhưng kinh sách thì
phải có chữ nghĩa. Không thể dùng chữ Nôm để viết tiếng Việt, các giáo
sĩ ký âm thẳng tiếng Việt bằng mẫu tự la-tinh, rồi mới dùng thứ chữ mới
ký âm nầy để viết sách giáo lý bằng tiếng Việt. Mẫu tự la-tinh chỉ gồm
24 chữ cái, có thể dùng để lắp ghép thành các từ ngữ trong tiếng Việt,
nên thứ chữ mới nầy giản dị, dễ học, dễ viết, dễ sử dụng, dễ truyền bá.
Từ đó, các giáo sĩ và những người Việt tân tòng hoặc học đạo với các
giáo sĩ, đã hợp tác và tạo nên một thứ chữ mới vào thời đó, mà học giả
Pétrus Ký, tức Trương Vĩnh Ký gọi là “quốc ngữ” trong một bài viết trên
Gia Định Báo ngày 15-4-1867.(4)
II. Các giai đoạn hình thành Quốc ngữ
Giai đoạn 1: Ngu cầu truyền đạo của các giáo sĩ
Các giáo sĩ Ky-Tô La Mã đến Đại Việt để truyền đạo. Vì nhu cầu truyền
đạo, các ông sáng chế chữ quốc ngữ chỉ để làm phương tiện phổ biến rộng
rãi giáo lý đạo Ky-Tô, chứ không nhắm mục đích tạo nên một thứ chữ mới
cho dân Việt sử dụng.
Người có công đầu trong việc sáng chế quốc ngữ là linh mục Francesco de
Pina (1585-1625), một giáo sĩ Dòng Tên, người Bồ Đào Nha, đến Đàng Trong
năm 1617, từ trần vì đắm thuyền ở vịnh Đà Nẵng năm 1625. Ông là người
đầu tiên nói thạo và giảng đạo bằng tiếng Việt. Hợp tác với nhiều người,
và đặc biệt, nhờ sự giúp đỡ của một thanh niên Việt có tên đạo là
Phê-rô, De Pina đã khởi thảo la-tinh hóa tiếng Việt, soạn thảo một bản
văn phạm quốc ngữ, dịch và soạn sách giáo lý đạo Ky-Tô bằng tiếng Việt,
mở trường dạy tiếng Việt cho người ngoại quốc.(5a)
Năm 1618, linh mục De Pina cùng với Phê-rô dịch qua tiếng Việt lần đầu
tiên Kinh lạy Cha và các kinh căn bản khác trong Ky-Tô giáo La Mã, (5b)
có thể xem là khởi đầu cho việc sơ thảo quốc ngữ. Theo lời linh mục De
Pina, năm 1622, ông hoàn tất hệ thống chuyển mẫu tự la-tinh thích hợp
với cách phát âm và thanh điệu tiếng Việt.(5c) Rất tiếc giai đoạn nầy
chưa được nghiên cứu đầy đủ. Bản Kinh lạy Cha được viết tay năm 1632 còn
được nguyên bản như sau: (5d)
Trong số các học viên trường tiếng Việt của linh mục De Pina, có một
người về sau nổi tiếng là linh mục Alexandre de Rhodes (1593-1660). Giáo
sĩ De Rhodes đến Hội An năm 1624. Ngoài De Pina, De Rhodes còn học
tiếng Việt với nhiều người địa phương, trong đó có một thiếu niên 13
tuổi ở Hội An, sau De Rhodes nhận làm con nuôi, và người nầy trở thành
thầy giảng Raphael Rhodes. Năm 1645, A. de Rhodes bị trục xuất ra khỏi
Đàng Trong, về Ma Cao.
Alexandre de Rhodes qua La Mã năm 1650. Năm 1651, tại La Mã, ông đứng
tên tác giả, ấn hành hai bộ sách. Thứ nhất là Catechismus pro ijs, qui
volunt suscipere Baptismum, in octo dies divisua (Giáo lý dành cho những
ai muốn chịu Phép Rửa, chia ra tám ngày).(6) Thứ hai là Dictionarium
Annamitcum Lusitanum et Latinum (Từ điển Việt - Bồ - La).(7)
Vì Alexandre de Rhodes gốc Pháp, nên người Pháp đã ca tụng ông như là
nhà sáng chế chữ quốc ngữ, để kể công “khai hóa” của thực dân Pháp. Thật
ra, người đầu tiên sáng chế chữ Quốc ngữ là linh mục Francesco de Pina,
gốc Bồ Đào Nha, rồi đến nhiều giáo sĩ khác, trước khi De Rhodes đến Đại
Việt. Trong lời “Cùng độc giả” vào đầu quyển từ điển năm 1651, A. de
Rhodes cũng xác nhận:
“Tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều cha khác cùng một Hội
Dòng, nhất là của cha Gaspar de Amaral và cha Antonio Barbosa, cả hai
ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu bằng
tiếng An nam, ông sau bằng tiếng Bồ Đào Nha, nhưng cả hai ông đều đã
chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La-tin theo
lệnh của các hồng y rất đáng tôn kính...”(8)
Nguồn: nld.com.vn
Nói cho cùng, sự hình thành quốc ngữ không phải do công sức cá nhân của
một giáo sĩ, mà là công sức tập thể của nhiều giáo sĩ thuộc nhiều nước
khác nhau, nhiều thế hệ khác nhau, đã đến truyền đạo Ky-Tô tại Đại Việt,
cộng với sự đóng góp lớn lao âm thầm của rất nhiều giáo sĩ và thường
dân Việt.
Từ đây quốc ngữ được sử dụng càng ngày càng rộng rãi trong các giáo
đường, các tu viện Ky-Tô giáo Đại Việt. Một số giáo sĩ Việt bắt đầu dùng
quốc ngữ để viết thư, kể cả thư cho những giáo sĩ nước ngoài. Hai quyển
từ điển khác được soạn thảo là Dictionnarium Annamitico Latinum [Từ
điển Việt - La tinh] của giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc,
1741-1799), cố vấn của Nguyễn Phúc Ánh, soạn xong năm 1772, và
Dictionnarium Annamitico Latinum (Nam Việt Dương Hiệp tự vị) của Jean
Louis Taberd (1794-1840).
Bộ tự điển của giám mục Bá Đa Lộc còn ở dạng bản thảo, và giám mục
Taberd dựa trên bản thảo nầy, để soạn bộ sách của ông và xuất bản ở Ấn
Độ năm 1838 khi ông hành đạo tại nước nầy.(9)
Khi đô đốc Rigault de Genouilly đánh chiếm thành Gia Định vào tháng
2-1859, ông thấy rằng các giáo sĩ Ky-Tô La Mã đã thành lập ở đây một
trường học lấy tên là “Collège d'Adran”.(10) Tại trường nầy, học sinh
được học chữ la-tinh, quốc ngữ và một ít chữ Pháp.(11)
Giai đoạn 2: Nhu cầu cai trị của người Pháp
Khi chiếm Gia Định, vì nhu cầu cai trị, phó đô đốc Léonard Charner đưa
ra nghị định ngày 21- 9-1861, dùng trường sở Collège d'Adran, thành lập
Trường thông ngôn với danh hiệu đầy đủ là “Collège Annamite-Français de
Monseigneur l'Évêque d'Adran”.(12) Trường thông ngôn chẳng những dạy
người Việt học chữ Pháp để làm thông ngôn, mà còn dạy người Pháp học
tiếng Việt bằng thứ chữ mới.
Léonard Charner cho mở ngay nhà in và phát hành báo Le Bulletin Officiel
de l'Expédition de la Cochinchine (Công báo của đoàn Viễn chinh Nam Kỳ)
bằng chữ Pháp, xuất bản số đầu tiên ngày 29-9-1861. Khi Louis Bonard
đến thay Charner ngày 29-11-1861, Bonard cho phát hành báo Le Bulletin
Des Communes có phần chữ Nho để phổ biến rộng rãi tin tức nơi người Việt
và người Hoa lúc đó khá đông ở Gia Định. Bonard dự tính ấn hành một tờ
báo tiếng Việt. Tuy nhiên chữ Việt theo mẫu tự la-tinh có nhiều dấu
(huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã), nên phải đặt chữ cái để sắp chữ in, đúc ở
Pháp, mất hai năm mới xong (1864). Nhờ vậy ngày 15-4-1865, tờ báo tiếng
Việt bằng thứ chữ mới, phiên âm theo mẫu tự la-tinh, lần đầu tiên được
phát hành tại Sài Gòn là Gia Định Báo.(13) Trên Gia Định Báo số 4, ngày
15-4-1867, Pétrus Ký (1837-1898) đã viết một bài khuyến khích việc học
thứ chữ mới, trong đó có đoạn như sau:
“...Thầy Ký dạy học có làm sách mẹo [văn phạm] dạy tiếng Lang Sa
[Pháp], có làm ra chữ quốc ngữ [sic] để người ta dễ học. Những người ký
lục [thư ký] giỏi cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ vì có hai
mươi bốn chữ và viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ [khó dễ] cũng
viết đặng, không phải như chữ Tàu học già đời mà còn có chữ lạ viết
không ra, ở đây có Phủ Tường [Tôn Thọ Tường] đã học đặng chữ quốc ngữ,
viết đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì
thuộc hết...”(14)
Pétrus Ký (1837-1898)
Danh từ “quốc ngữ” có thể xuất hiện trước đó trong giới Ky-Tô giáo,
nhưng nay mới được Pétrus Ký chính thức “khai sinh” trên Gia Định Báo
ngày 15-4-1867. Quốc ngữ lên báo chí, dù lúc đầu chỉ để thông tin, cũng
có nghĩa là loại chữ nầy đã khá đầy đủ để diễn đạt chủ trương của nhà
cầm quyền Pháp, và bắt đầu trở nên phổ thông, dầu chưa được chính thức
áp dụng trong hành chánh. [Về sau, khi quốc ngữ trở thành chữ viết chính
thức của người Việt, danh từ “quốc ngữ” dần dần biến mất. Ngày nay
người ta không gọi “quốc ngữ”, mà chỉ gọi là “Việt ngữ”].
Một chi tiết đáng chú ý là ngành in ấn theo cách lắp chữ kiểu Tây
phương,(15) giản dị, nhanh chóng, và tiện lợi hơn rất nhiều so với cách
khắc bản gỗ (mộc bản) chữ Nho theo kiểu xưa của Việt Nam. In mộc bản,
phải khắc từng chữ Nho chung trong toàn bài văn trên một bản gỗ. In
xong, bản gỗ đó không dùng để in sách khác mà phải khắc sách khác từ
đầu.
Sự phát triển ngành in đẩy mạnh việc ấn hành sách báo, từ đó làm cho
quốc ngữ được truyền bá nhanh chóng vì người ta có thể học vần quốc ngữ
bằng sách báo, đồng thời làm bùng nổ nền văn học quốc ngữ.
Trong khi đó, khoa thi hương (Nho học) năm 1861 (tân dậu) cho toàn thể
Nam Kỳ lục tỉnh tại Gia Định bị bãi bỏ vì tình hình biến động. Gia Định
mất năm 1862 nên khoa thi hương năm 1864 (giáp tý) ở Nam Kỳ được tổ chức
tại Cần Thơ (huyện Vĩnh Định, tỉnh An Giang).(16) Sau đó, Pháp chiếm
toàn bộ Nam Kỳ năm 1867, nên các kỳ thi Nho học ở trong Nam hoàn toàn bị
bãi bỏ. (Còn tiếp)
__________________________________
Chú thích:
1. Dương Quảng Hàm, Việt-Nam văn-học sử-yếu, in lần thứ bảy, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sài Gòn, 1960, tr. 106.
2. "Chữ Nôm là thứ chữ hoặc dùng nguyên hình chữ Nho, hoặc lấy hai ba
chữ Nho ghép lại để viết tiếng [Việt] Nam " (Dương Quảng Hàm, sđd. tr.
100.) Hoặc "chữ Nôm được cấu tạo trên cơ sở chữ Hán Việt, tức chữ Hán
đọc theo âm hán-việt". (Đào Duy Anh, Chữ Nôm, Nguồn gốc, Cấu tạo, Diễn
tiến, Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, 1973, tr. 51.) Do đó, muốn học chữ
Nôm thì phải biết chữ Hán tức chữ Nho, và như thế học chữ Nôm cũng khó
không kém gì học chữ Nho, nếu không muốn nói là khó hơn. Có thể vì chữ
Nôm khó học, khó viết, nên có hai hệ quả: Thứ nhất chữ Nôm chỉ phát
triển trong giới sĩ phu, trí thức, văn thi sĩ ngày xưa mà thôi. Những
người nầy vốn đã giỏi chữ Nho, nên học được chữ Nôm, chứ chữ Nôm ít phổ
biến rộng rãi trong dân chúng. Có thể nói, trong lịch sử văn học, chưa
có một nhân vật nào giỏi chữ Nôm mà không biết chữ Nho. Thứ hai, vì ít
được sử dụng và nhất là không được chính thức sử dụng, nên lối viết chữ
Nôm không ổn định. Mỗi địa phương dựa theo chữ Nho mà ghép lại thành chữ
Nôm địa phương, nên chữ Nôm không thống nhất trên toàn quốc.
3. Dòng Tên (Society of Jesus): Do tu sĩ Ignatius Loyola (1491-1556),
người Tây Ban Nha, lập năm 1539, nhắm bảo vệ tính chính thống của giáo
quyền La Mã và hỗ trợ công việc truyền giáo ra các nước trên thế giới.
Hiệp hội nầy được Paul III (giáo hoàng 1534-1549) thừa nhận. Vì tập tục
kỵ húy của người Việt, tín đồ ngày xưa kỵ húy tên Chúa Jesus, nên chỉ
gọi hiệp hội nầy là “dòng Tên” tức “dòng đạo mang tên Chúa Jesus”. Năm
1541, Ignatius được bầu làm trưởng dòng Tên đầu tiên. Sau khi từ trần,
Ignatius được giáo hoàng Gregory XV (giáo nhiệm 1621-1623) phong thánh
năm 1622. Lúc nầy, ở Đông Á, Dòng Tên đặt trụ sở chính tại Ma Cao (Trung
Hoa). Từ đó, các tu sĩ Dòng Tên truyền qua Nhật Bản và lui tới Việt
Nam. [Về việc người Tây phương và các giáo sĩ đạo Ky-Tô La Mã đến nước
ta, xin xem chương “Người Âu Châu đến Đại Việt”, Việt sử đại cương tập
2, cùng tác giả, tt. 117-160.]
4. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản yếu tân biên, quyển 3, Văn học
hiện đại (1862-1945), California: Nxb Đại Nam tái bản không đề năm, tr.
67.
5. Roland Jacques, Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của
Giáo hội Công giáo Việt Nam [song ngữ Việt Pháp], tập 1, Paris: Định
Hướng Tùng Thư, 2004, tt. 81-89 (5a), 223-225 (5b), 85 (5c), tr. 375
(5d). Các bản văn Kinh lạy Cha đều trích từ sách nầy.
6. Trong Việt-Nam văn-học sử yếu của Dương Quảng Hàm, sđd. chương thứ
18, thiên thứ 5, năm thứ nhất ban Trung học, tr. 181, có trích đăng một
phần của sách nầy dưới tựa đề Phép giảng tám ngày. Ngoài ra, sách Giáo
lý dành cho những ai muốn chịu Phép Rửa, chia ra tám ngày đượïc in lại:
Phép giảng tám ngày - Catechismus in octo dies divisus - Catéchisme
divisé en huit jours, lời tựa của Nguyễn Khắc Xuyên, André Marillier ghi
lại theo chính tả ngày nay, Henri Chappoulie dịch qua tiếng Pháp,
TpHCM: Tủ sách Đại Kết, 1993. (Theo Roland Jacques, sđd. tr. 199, phần
chú thích.)
7. Sách nầy được in lại: Dictionarium Annamitcum Lusitanum et Latinum,
Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính dịch, Từ điển Annam -
Lusitan - La Tinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La), Hà Nội: Nxb Khoa
học Xã hội, 1991.
8. Alexandre de Rhodes, Dictionarium Annamitcum Lusitanum et Latinum, bản in năm 1991, tr. 3.
9. http://archivesmep.mepasie.net/recherche (tìm chữ Taberd).
10. Adran là tước hiệu tông tòa của giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc).
11. John DeFrancis, Colonialism and Language Policy in Vietnam, New
York: Moulton Publishers, 1977, tr. 75. DeFrancis theo tin của báo
Courrier de Saigon ngày 10-2-1864 và DeFrancis cho biết chi tiết nầy ông
lấy từ bài “Le français, le quoc-ngu, et l'enseignement public en
Indochine” của E. Roucoules, trong Bulletin de la Société des études
Indochinoises, số 1 năm 1890.
12. John DeFrancis, sđd. tr. 76. Theo Alfred Schreiner, Abrégé de
l'histoire d'Annam, Deuxième édition, Sai Gòn: 1906, tt. 200-201, thì
Charner mở cùng một lúc hai trường: trường thông ngôn dạy tiếng Việt cho
quan chức Pháp và trường Pháp mang tên Adran (Bá Đa Lộc) cho trẻ em
Việt. Có thể vì việc Charner dùng trụ sở Collège d'Adran mở trường thông
ngôn nên có sự lầm lẫn nầy chăng?
13. Thư ngày 9-5-1865 của quyền thống đốc Nam Kỳ là Pierre-Gustave Roze
(thống đốc De la Grandière về Pháp từ 30-3-1865 đến 26-11-1865), gởi cho
bộ trưởng bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp. (Đặng Văn Nhâm, Lịch sử báo
chí Việt Nam, California, Nxb. Việt Nam Văn Hiến, 1999, tr. 39.) Ông
Đặng Văn Nhâm trích dịch như sau: “Số đầu tiên của tờ Gia Định Báo được
in bằng chữ An Nam, theo mẫu tự La-tinh, phát hành vào ngày 15 tháng 4
vừa qua...”
14. Phạm Thế Ngũ, sđd. tr. 67.
15. Cách in chữ Nho ngày trước là khắc từng chữ Nho trong nguyên bài vào
bản gỗ (mộc bản), dùng để in, rồi không dùng cho bài khác được. Cách in
mới của giai đoạn nầy là người thợ dùng 24 chữ cái trong mẫu tự
la-tinh; lắp ráp chữ cái với nhau thành chữ; ghép các chữ thành bản in.
In xong, rả bản in cũ, dùng lắp lại chữ in khác.
16. Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, bản dịch. của Nguyễn Thị
Nga và Nguyễn Thị Lâm, Nxb. TpHCM, 1993, tr. 371. Alfred Schreiner, sđd.
tr. 340.
*
(Phần 2)
Giai đoạn 3: Chữ viết chính thức
Tại Nam Kỳ: Toàn bộ Nam Kỳ trở thành thuộc địa Pháp từ sau hòa ước Giáp
Tuất (18-3-1874). Tại đây, quốc ngữ tiến thêm một bước khá dài nữa, khi
phó đề đốc Hải quân Pháp là Louis Lafont, thống đốc Nam Kỳ, ban hành
nghị định ngày 6-4-1878, theo đó kể từ 1-1-1882, ở Nam Kỳ, tất cả các
giấy tờ như công văn, nghị định, quyết định, bản án, lệnh... đều viết
bằng mẫu tự la-tinh, tức chữ Pháp hay Quốc ngữ, chứ không còn viết bằng
chữ Nho; và cũng từ 1-1-1882, chỉ những người biết quốc ngữ mới được
tuyển dụng vào các cơ quan hành chánh cấp phủ, huyện, tổng.(17)
Ngày ban hành và ngày áp dụng việc thi hành nghị định nầy cách nhau gần 4
năm, nghĩa là khoảng thời gian cần thiết để tổ chức giáo dục, chuyển
đổi từ việc học chữ Nho qua việc học quốc ngữ. Ngày 17-3-1879, Pháp
thành lập Sở Giáo dục công cộng (Service de l'instruction publique) ở
Sài Gòn và đưa ra chương trình giáo dục Pháp-Việt bậc tiểu học, gồm có 6
năm học; theo đó trong ba năm đầu, học sinh phải học ba thứ chữ là chữ
Nho, quốc ngữ và chữ Pháp; đến ba năm sau, học sinh chỉ còn học quốc ngữ
và chữ Pháp.(18)
Nói cách khác, tại Nam Kỳ, bên cạnh chữ Pháp, từ đây quốc ngữ trở thành
chữ viết chính thức được sử dụng trong các trường học, sở làm, và báo
chí. Một công trình quốc ngữ quan trọng đầu tiên do một thường dân người
Việt biên soạn chứ không phải giáo sĩ nước ngoài, là bộ Đại Nam quấc âm
tự vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của. Bộ sách nầy gồm hai quyển, phát hành
liên tiếp hai năm 1895 và 1896 tại Sài Gòn.
Tại Trung và Bắc Kỳ: Pháp bảo hộ Trung và Bắc Kỳ bằng hòa ước Giáp Thân
(6-6-1884). Những trường trung học đầu tiên Pháp mở ở Trung và Bắc Kỳ
như trường Quốc Học Huế (khai giảng ngày 26-12-1896), trường Collège des
interprètes (Trường Thông ngôn, mở năm 1904)... đều dạy bằng tiếng Pháp
và chương trình Pháp cho học sinh Việt. Triều đình Việt Nam vẫn tiếp
tục mở những khoa thi Nho học (thi hương và thi hội) theo định kỳ 4 năm
một lần như trước đây.
Riêng ở Bắc Kỳ, toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định ngày 6-6-1898
(niên hiệu Thành Thái thứ 10), tổ chức một kỳ thi phụ sau kỳ thi hương
truyền thống tại Nam Định. Môn thi gồm tiếng Pháp và quốc ngữ, không có
chữ Nho. Những người đậu cử nhân hay tú tài Nho học trong kỳ thi hương,
nếu đậu luôn kỳ thi phụ, sẽ được ưu tiên chọn ra làm quan.(19)
Chủ trương “hợp tác” và mở cuộc “chinh phục tinh thần” khi đến làm toàn
quyền Đông Dương từ 1902 đến 1908, Paul Beau cho giảng dạy quốc ngữ ở
các trường Trung và Bắc Kỳ. Học chế năm 1906 (do quyền toàn quyền Broni
chuẩn y) quy định các trường học Việt Nam gồm ba cấp ấu học, tiểu học và
trung học. Quốc ngữ được dạy ở cả ba cấp. Ai đậu kỳ thi cuối khóa cấp
trung học, được gọi là thí sinh và sẽ được dự kỳ thi hương.(20)
Trong khi đó, các nhà khoa bảng cựu học như Phan Châu Trinh, Trần Quý
Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, kết hợp với những trí thức cấp tiến lúc đó, mở
phong trào Duy tân, vận động cải cách văn hóa, chính trị trên toàn quốc,
kêu gọi bãi bỏ Nho học, cổ xúy việc học quốc ngữ để nâng cao dân trí,
vì một lý do đơn giản: quốc ngữ dễ học, dễ viết, dễ phổ cập hơn chữ
Nho.
Các ông vận động mở trường dạy quốc ngữ khắp nước, rầm rộ nhất là ở
Quảng Nam (1905), Bình Thuận (trường Dục Thanh, 1907) và Hà Nội (Đông
Kinh Nghĩa Thục, 1907). Trong một bài thơ khuyến khích việc học quốc ngữ
của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết:
“...Chữ quốc ngữ là hồn trong nước,
Phải đem ra tỉnh trước dân ta,
Sách các nước, sách Chi-na,
Chữ nào nghĩa ấy, dịch ra cho tường...”(21)
Từ năm 1909, quốc ngữ được đưa vào chương trình thi hương trên toàn
Trung và Bắc Kỳ. Trong 4 kỳ (trường) thi hương,(22) đến kỳ thứ 3 (trường
3), thí sinh bắt buộc phải làm 2 đề thi luận: một đề chữ Nho và một đề
quốc ngữ. Qua kỳ thi hương năm 1912, đề thi kỳ 3 (trường 3) gồm hai đề
quốc ngữ, và kỳ 4 (trường tư) một đề quốc ngữ. Đến kỳ thi hương cuối
cùng năm 1918 ở Trung Kỳ, từ kỳ 2 (trường nhì) đến kỳ 4 (trường tư) đều
có đề thi quốc ngữ.(23)
Toàn quyền Albert Sarraut (lần thứ hai từ 1917-1919) ra nghị định ngày
21-12-1917 về Quy chế chung về ngành giáo dục công cộng ở Đông Dương
(Règlement général de l'instruction publique en Indochine), thường được
gọi là “Học chánh tổng quy”, áp dụng cho toàn cõi Đông Dương để thay thế
cho học chế thời Paul Beau.
Theo tổng quy mới, trong 5 năm bậc tiểu học, thì 3 năm đầu, học sinh học
các môn bằng quốc ngữ và chữ Pháp, chữ Nho không bắt buộc; hai năm cuối
bắt buộc học các môn bằng chữ Pháp. Riêng 4 năm bậc trung học, mỗi tuần
chỉ có 3 giờ quốc văn trong tổng số 27 giờ học mỗi tuần. Đăc biệt, phần
cuối tổng quy nầy định rằng các trường chữ Nho của tư nhân hay của
triều đình, kể cả quốc tử giám, đều được xếp vào loại trường tư và phải
tuân theo quy chế của chính quyền Pháp.(24)
Nói cách khác, tổng quy nầy dẹp bỏ luôn chương trình Nho học. Chính vì
vậy, sau khoa thi hương năm 1915, ở Bắc Kỳ (vùng bảo hộ trực tiếp) không
tổ chức thi Nho học nữa, trong khi ở Trung Kỳ (vùng bảo hộ gián tiếp),
khoa thi hương cuối cùng năm 1918 và thi hội cuối cùng năm 1919.
Ba giờ quốc văn quá ít. Dư luận người Việt phản ứng. Bảy năm sau, toàn
quyền Martial Merlin (từ 1923-1925) công bố nghị định ngày 18-9-1924,
sửa đổi lại học chánh tổng quy của Sarraut. Theo học chế mới thời
Merlin, trong ba năm đầu của bậc tiểu học, dạy hoàn toàn bằng quốc ngữ
thay vì chữ Pháp hay chữ Nho,(25) nhưng các lớp sau đó dạy bằng chữ
Pháp. Việc phổ cập giáo dục tiểu học cho trẻ em bằng quốc ngữ, giúp cho
học sinh Việt căn bản quốc ngữ trong đời sống hàng ngày. Như thế học quy
Martial Merlin công nhận từ đây quốc ngữ là chữ viết chính thức của
người Việt Nam.
Quốc ngữ càng ngày càng phổ thông, giúp dân chúng những hiểu biết sơ
đẳng cần thiết trong đời sống, nhất là về phương diện chính trị. Từ năm
1925 trở đi, nhiều đảng phái chống Pháp được thành lập, viết truyền đơn,
lời kêu gọi, sáng tác thơ văn yêu nước... đều bằng quốc ngữ.
Phản ứng đối với sự hình thành Quốc ngữ
Cần chú ý là trước khi được trọng dụng, quốc ngữ cũng đã gặp một số phản
đối về phía người Việt cũng như về phía người Pháp. Ở Nam Kỳ, một số
người Việt cho rằng quốc ngữ phiên âm quá nhiều chữ Nho mà nếu không học
trước những chữ Nho nầy thì không hiểu gì cả.
Một số người Pháp muốn truyền bá văn hóa Pháp, thì cho rằng quốc ngữ
được chế ra từ chữ Bồ Đào Nha, không thể dùng để đọc chữ Pháp và có thể
gây cản trở việc học chữ Pháp. Ngày 10-12-1885, báo Le Saigonnais [Người
Sài Gòn] đăng một kiến nghị của thân hào bản xứ xin Hội đồng Thuộc địa
can thiệp để triệt bỏ quốc ngữ vì thứ chữ nầy vô lý, giả tạo.(26a)
Tại triều đình Huế, thượng thư bộ Học là Cao Xuân Dục hết sức bài bác
quốc ngữ, mà theo ông là thứ chữ do Tây [Pháp] đem lại.(26b) Một số nhà
Nho cho rằng cách viết quốc ngữ theo mẫu tự la-tinh cắt đứt tiếng Việt
với nguồn gốc Hán tự, thiếu ý nhị, không có ý nghĩa tượng hình.(26c)
Ngày nay, có người còn cho rằng sự thay đổi chữ viết từ chữ Nho qua quốc
ngữ, khiến người Việt lạc mất cội nguồn văn hóa dân tộc cổ truyền.
Thật ra, trong tiến trình hình thành quốc ngữ, không thể đòi hỏi quốc
ngữ phải toàn thiện ngay từ đầu, mà cần có thời gian để điều chỉnh và
hoàn thiện dần dần. Ngay những thứ chữ như chữ Pháp hay chữ Anh, ngày
nay hàng năm cũng có cả hàng ngàn chữ mới được bổ túc vào kho tàng ngôn
ngữ của các nước nầy.
Trong khi đó, quốc ngữ giúp phổ biến rộng rãi văn hóa và nâng cao trình
độ hiểu biết về mọi mặt cho toàn thể dân chúng, giúp người Việt dễ thích
ứng và nhanh chóng bắt kịp tiến bộ khoa học trên thế giới. Nhờ thế,
ngày nay người Việt tiếp thu và hội nhập dễ dàng vào hệ thống điện toán
thời đại mới.
Trước đây Nho giáo là một triết thuyết chính trị hậu thuẫn cho chế độ
quân chủ. Các chế độ quân chủ Việt Nam ứng dụng văn hóa Nho giáo để ổn
định xã hội và củng cố chế độ, khiến tinh thần sĩ phu lệ thuộc chẳng
những Nho giáo mà cả văn hóa Trung Hoa. Việc bãi bỏ Nho học và thay đổi
chữ viết từ chữ Nho (Hán tự) qua quốc ngữ, chấm dứt vĩnh viễn giai đoạn
lệ thuộc Nho học và văn hóa Trung Hoa, đồng thời mở ra một chân trời mới
có tính cách toàn cầu trước mắt người Việt.
Nhiều nhà Nho dưới chế độ quân chủ, đắm mình lâu đời trong văn hóa Trung
Hoa, lầm tưởng rằng văn hóa Trung Hoa là văn hóa dân tộc, và những anh
hùng liệt nữ Trung Hoa là khuôn vàng thước ngọc cho xã hội Việt. Các tác
giả chữ Nho thời trước thường dùng điển tích Trung Hoa về những vua
quan, anh hùng, thần thánh, phong tục, tập quán Trung Hoa, để làm mẫu
mực cho người Việt.
Khi sử dụng quốc ngữ, bước ra khỏi văn hóa Trung Hoa, nhiều người mới
tìm trở lại bản sắc văn hóa dân tộc. Từ đây, càng ngày nền văn hóa dân
tộc càng được đề cao. Trong nền văn học quốc ngữ, điển tích Việt được sử
dụng rộng rãi. Hai Bà Trưng, Triệu Nữ Vương, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo,
Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Quang Trung... mới là những anh hùng đích thực,
những tấm gương sáng của người Việt.
Điểm đặc biệt, sau khi các khoa thi chữ Hán chấm dứt, người Việt chuyển
qua học quốc ngữ, không còn đọc được sách sử viết bằng chữ Hán, thì sử
gia Trần Trọng Kim soạn bộ Việt Nam sử lược do nhà xuất bản Trung Bắc
Tân Văn ấn hành tại Hà Nội năm 1920, nối mạch quốc thống Việt Nam, giúp
cho những nhà tân học đọc được lich sử nước nhà bằng quốc ngữ.
Kết luận
Sự hình thành quốc ngữ tiến triển qua ba giai đoạn: 1) Do nhu cầu truyền
đạo, các giáo sĩ Tây phương dùng mẫu tự la-tinh phiên âm thiếng Việt và
sử dụng thứ chữ mới trong khuôn viên giáo đường. 2) Do nhu cầu cai trị
nước ta, Pháp ứng dụng thứ chữ mới nầy trong quần chúng. 3) Do nhu cầu
phổ cập giáo dục căn bản cho trẻ em Việt Nam, Pháp đưa quốc ngữ vào
chương trình tiểu học từ năm 1924. Quốc ngữ được chính thức công nhận là
chữ viết của người Việt.
Sự xuất hiện của quốc ngữ đưa đến sự hình thành nền văn học quốc ngữ.
Trên toàn cõi nước ta, nền văn học quốc ngữ phát triển sớm nhất tại Nam
Kỳ vì một lý do đơn giản là tại Nam Kỳ, Nho học được bãi bỏ sớm nhất,
quốc ngữ được sử dụng sớm nhất và ngành in ấn phát triển sớm nhất.
Cũng tại Nam Kỳ, tiểu thuyết đầu tiên xuất hiện năm 1887 là Truyện thầy
Lazaro Phiền của P. J. B. Nguyễn Trọng Quản do nhà xuất bản J. Linage ấn
hành năm 1887 tại Sài Gòn, trong khi ở Hà Nội, truyên Tố Tâm của Song
An Hoàng Ngọc Phách được ấn hành năm 1925. (27)
Nền văn học quốc ngữ đa dạng, phong phú và phổ thông, phát triển nhanh
chóng, càng làm tăng giá trị của công trình sáng tạo quốc ngữ. Từ đó,
sách báo quốc ngữ càng ngày càng nhiều và cao điểm là phong trào thơ mới
và phong trào tiểu thuyết rất phong phú, thường được gọi là nền “văn
học tiền chiến”.
Năm 1942, Hoàng Xuân Hãn xuất bản sách Danh từ khoa học bằng quốc ngữ,
mà theo ông, sách hết ngay sau mấy tháng phát hành. Vua Bảo Đại công bố
bản Tuyên ngôn độc lập ngày 11-3-1945 bằng quốc ngữ.(28) Nhà vua ban
hành dụ số 67 ngày 30-7-1945 quy định từ học khóa 1945-1946, bậc trung
học Việt Nam dạy bằng quốc ngữ.
Bộ Giáo Dục - Mỹ Thuật thời chính phủ Trần Trọng Kim do Hoàng Xuân Hãn
làm bộ trưởng, đã đưa ra “Chương trình trung học” hoàn toàn bằng quốc
ngữ, trong khi Pháp văn cũng như Anh văn được xếp vào môn sinh ngữ, Hán
văn là môn cổ ngữ.(29) Chương trình nầy làm căn bản cho các chương trình
trung học về sau.
Như thế ngay từ đầu, quốc ngữ cho thấy sức sống mạnh mẽ, phát triển
nhanh chóng, và chóng trở nên phổ thông, đồng thời hứa hẹn nhiều tương
lai sáng sủa, như nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh đã tin tưởng: “Nước Nam ta mai
sau này, hay dở cũng ở chữ quốc ngữ.” (30)
(California, 06-07-2008)
____________________________
Chú thích:
1. Alfred Schreiner, sđd. tr. 340.
2. Dương Kinh Quốc, Việt Nam: Những sự kiện lịch sử (1858-1918), Hà Nội: Nxb Giáo Dục, 1999, tr. 109.
3. Emmanuel Poisson, Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam, une
bureaucratie à l'épreuve (1820-1918), Paris: Maisonneuve & Larose,
2004, tt. 193-194. Cũng theo tài liệu nầy, các môn thi trong kỳ thi phụ
như sau: 1) Viết tập chữ Pháp (hệ số 3). 2) Chính tả chữ Pháp (HS 5). 3)
Dịch chữ Pháp qua quốc ngữ (HS 5) 4) Đàm thoại tiếng Pháp (HS 5) 5)Đọc
và dịch miệng tại chỗ một bài tiếng Pháp (HS 5) 6) Chính tả quốc ngữ (HS
3) 7) Dịch một bài chữ Nho qua quốc ngữ (HS 4). Điểm cho trên 20. Thí
sinh phải đủ tối thiểu 360 điểm trên 600 điểm thì mới được ưu tiên chọn
ra làm quan. Những người đậu cử nhân phải hơn những người đậu tú tài 50
điểm. [Hệ số (coefficient): Các môn thi được xem quan trọng nhiều hay ít
khác nhau, nên có hệ số lớn nhỏ khác nhau. Ví dụ môn viết tập chữ Pháp
hệ số 3; môn chính tả Pháp hệ số 5. Mỗi môn thi được cho điểm tối đa là
20. Điểm mỗi môn nhân lên với hệ số môn đó, rồi cộng tất cả thành điểm
cuối cùng. Ví dụ tổng cộng hệ số 7 môn thi trong kỳ thi phụ trên đây là
30. Điểm tối đa mỗi môn thi là 20 điểm, vậy 20 X 30 = 600 điểm (điểm tối
đa). Luật thi quy định thí sinh phải được 360 / 600 mới được ưu tiên
chọn ra làm quan.] .
4. Louis Cury, La société annamite, les lettrés - les mandarins - le
peuple (Thèse pour le doctorat), Paris: Jouve et Cie, Éditeurs, 1910,
tt. 24-33. (Nghị định do quyền toàn quyền Broni ký ngày 14-9-1906).
5. Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, quyển V - Tập trung, Việt Nam Cách mạng cận sử (1885-1914), Sài Gòn: 1963, tr. 393.
6. Thông thường, khóa thi hương có 4 giai đoạn, thường gọi là 4 kỳ hay 4
trường. Đậu kỳ 1 (trường nhất) mới được thi kỳ 2 (trường hai hay trường
nhì). Đậu kỳ 2 mới được thì kỳ 3 (trường ba). Đậu trường 3 mới được thi
kỳ 4 (trường tư). Đậu kỳ 4 (trường tư) được gọi là cử nhân. Đậy kỳ 3
(trường ba) hỏng kỳ 4 gọi là tú tài.
7. Cao Xuân Dục, sđd. tt. 611, 629, 645, 659.
8. Dương Kinh Quốc, sđd. tt. 375-378.
9. Học viện Quốc gia Ngôn ngữ và Văn minh Đông phương Paris, Khoa Đông
Nam Á, Trung tâm Tài liệu và Nghiên cứu về Đông Nam Á, Ban Việt học,
phần Chronologie Vietnamienne, Éléments pour “La mémoire de Phạm Quỳnh
1892-1945” [Biên niên Việt Nam, góp phần tưởng nhớ Phạm Quỳnh
1892-1945]. Xem thêm: Nguyễn Q. Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Hà
Nội: Nxb. Văn Hóa - Thông Tin, 1993, tr. 304.
10. Phạm Thế Ngũ, sđd. tr. 67 (26a), tr. 116 (26b), tr. 63 (26c).
11. Xin chú ý cách viết thời đó: (Truyện) (cuả) (Làm Ra)
12. Điểm đặc biệt là chiếu xưng đế của vua Gia Long (trị vì 1802-1820)
ngày 12 tháng 5 năm bính dần (28-6-1806) bằng chữ Nho. Tuyên cáo độc lập
của vua Bảo Đại bằng quốc ngữ.
13. Sách Danh từ khoa học và Chương trình trung học năm 1945 do bộ Giáo
Dục-Mỹ Thuật đưa ra, thường được gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn,
được đăng lại trong sách La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập I: Con người
và trước tác, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, tt. 519-850.
14. Nguyễn Văn Vĩnh viết câu nầy trong bài tựa bản dịch bộ Tam quốc chí
diễn nghĩa do Phan Kế Bính dịch, xuất bản ở Hà Nội năm 1909. (Dương
Quảng Hàm, sđd. tr. 398.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét