Vũ Quốc Ngữ
dịch (VNTB) Biến đổi khí hậu đe doạ sự chuyển đổi kinh tế của Việt Nam.
Hành động nhanh có thể ngăn ngừa những thiệt hại tồi tệ nhất.
Kể từ khi đưa ra các cải cách tự do hoá kinh tế vào những năm 1980, Việt
Nam đã dần dần khôi phục lại nền kinh tế non trẻ của mình từ những tàn
tích của cuộc chiến tranh kéo dài trên bán đảo Đông Dương trong gần hai
thập kỷ. Trong 30 năm qua, cải cách kinh tế đã đưa Việt Nam trở thành
một trong những quốc gia dẫn đầu về thương mại trong khu vực, mở đường
cho việc cải tổ kinh tế thông qua tăng cường hợp tác thương mại và hội
nhập vào nền kinh tế chính trị toàn cầu. Tuy nhiên, đối với một quốc gia
phụ thuộc nặng nề vào ngành nông nghiệp để tăng trưởng kinh tế, thay
đổi khí hậu đe doạ làm giảm đi các tiến bộ kinh tế đạt được trong thập
kỷ với việc đe dọa nghiêm trọng đến nước, lương thực và an ninh năng
lượng, và do đó, ảnh hưởng đến sức mạnh mới của Việt Nam.
Việt Nam chia sẻ nguồn lợi từ hệ thống sông Mê Công với các quốc gia
láng giềng Trung Quốc, Myanmar, Lào và Campuchia. Mỗi quốc gia đều có
lợi ích đặc biệt trong việc duy trì sông Mê Công do vai trò của nó trong
sản xuất nông nghiệp và các tuyến thương mại đông nam mà nó tạo ra. Tuy
nhiên, do địa lý ven biển thấp, đồng bằng sông Cửu Long được xem là một
trong những đồng bằng dễ bị tổn thương nhất trên thế giới. Nhiệt độ
trung bình được dự đoán sẽ tăng ít nhất là hai độ vào cuối thế kỷ này,
với sự thay đổi lớn về lượng mưa đe dọa gây lũ lụt hơn 40% đồng bằng
sông Cửu Long và 3% của đồng bằng Sông Hồng. Bên ngoài sông Mê Công,
biến đổi khí hậu dự kiến sẽ làm tăng tần suất và mức độ nghiêm trọng
của điều kiện thời tiết cực đoan, bao gồm hạn hán, mưa bất thường và
bão.
Tác động của biến đổi khí hậu đang bắt đầu ảnh hưởng đến Việt Nam. Giữa
năm 2015 và 2017, đồng bằng sông Cửu Long bị hạn hán lịch sử làm suy
giảm trồng trọt. Đồng thời, xâm nhập mặn ở nhiều vùng khác của nước này
đã làm ô nhiễm nước uống, gây tình trạng mất nước ngọt ở diện rộng. Nếu
xu hướng tiếp tục diễn ra, sản xuất nông nghiệp ở Châu Á dự báo sẽ
giảm một nửa trong vòng 30 năm tới, làm cho an ninh lương thực khu vực
gặp rủi ro.
Một nghiên cứu về những tác động thương mại của biến đổi khí hậu đối với
sản xuất lúa gạo ở Việt Nam năm 2030 cho thấy nước này sẽ phải đối mặt
với một cuộc khủng hoảng an ninh lương thực do hậu quả của sự mất an
ninh nước, chuyển đổi nền kinh tế dựa vào xuất khẩu sang một nền kinh tế
phụ thuộc vào chi tiêu của người tiêu dùng. Các dự đoán tương tự cho
thấy sự tăng giá lương thực quốc gia do biến đổi khí hậu sẽ trùng khớp
với việc giảm thương mại, điều này có thể dẫn đến những lệnh cấm xuất
khẩu tương tự lệnh cấm xuất khẩu gạo của quốc gia trong năm 2008. Mất ổn
định liên quan đến tài nguyên và bất ổn có thể tăng và lan rộng khắp
khu vực theo cách tương tự như cuộc khủng hoảng giá lương thực trong
giai đoạn 2007-2008.
Các nhà phân tích tin rằng những thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra
đối với ngành nông nghiệp sẽ dẫn đến sự suy giảm trong nhiều lĩnh vực
khác, tạo ra sự mất việc làm trên diện rộng. Điều này có thể dẫn đến
tình trạng di cư từ nông thôn ra thành thị, gây thêm căng thẳng và tạo
sức ép lên cơ sở hạ tầng mỏng manh và nguồn lực mỏng của các thành phố
công nghiệp hóa, dân cư đông đúc nhất ở Việt Nam. Nó cũng có thể làm
tăng di dân xuyên biên giới khi các cá nhân tìm kiếm cơ hội kinh tế tốt
hơn và an ninh việc làm ở các nước láng giềng. Điều này không chỉ đe dọa
làm giảm sự ổn định của nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam, mà
còn đe dọa làm gia tăng luồng di dân ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương,
gây ảnh hưởng đến sự ổn định của khu vực.
Mặc dù chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách nhằm khắc phục biến
đổi khí hậu nhưng vẫn duy trì các nhượng bộ về kinh tế được thực hiện
dưới tên giảm nhẹ biến đổi khí hậu, phần lớn là trách nhiệm của các quốc
gia phát triển. Tâm lý này được củng cố bởi niềm tin rằng việc duy trì
các kỹ thuật nông nghiệp hiện đại, chủ yếu dựa vào năng lượng từ nhiên
liệu hóa thạch, là một phần không thể tách rời trong tăng trưởng kinh tế
và thương mại khu vực của Việt Nam, với lợi ích quốc gia "ngày càng
được đầu tư vào mô hình hiện đại hóa.”
Mặc dù những tác động của biến đổi khí hậu dường như không làm giảm được
những thành tựu phát triển kinh tế xã hội và phát triển gần đây của đất
nước, điều này không nhất thiết phải xảy ra. Để hòa giải mong muốn tăng
trưởng kinh tế với những thiệt hại về môi trường mà nó có thể gây ra,
chính phủ phải có những giải pháp toàn diện hơn để giảm thiểu rủi ro,
làm giảm tác hại và tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Điều này đòi hỏi một cách suy nghĩ mới, cũng như sự chuyển đổi nhiều
ngành, bao gồm cả trong lĩnh vực nông nghiệp, năng lượng và nước. Các
chính sách kinh tế hướng đến tự do hoá thương mại, sẽ giúp Việt Nam tạo
ra ngoại hối cần thiết để mua lương thực trên thị trường toàn cầu trong
trường hợp khủng hoảng an ninh lương thực xảy ra. Điều này sẽ rất quan
trọng trong việc ngăn ngừa tình trạng khẩn cấp nhân đạo. Trong khi đó,
các giống cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu và các kỹ thuật nông
nghiệp ít sử dụng năng lượng sẽ nâng cao năng lực thích ứng của đất
nước, đồng thời làm giảm rủi ro. Cuối cùng, đa dạng hóa năng lượng sẽ
không chỉ giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hoá thạch, mà còn có thể thu
hút đầu tư nước ngoài cần thiết để hỗ trợ nền kinh tế của một quốc gia
trải qua quá trình chuyển đổi sang một tương lai bền vững hơn.
Madeline Brennan là biên tập viên của Viện Hòa bình Quốc tế (International Peace Institute) ở New York.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét