- Tại sao có quá nhiều bác sĩ phản đối việc giúp bệnh nhân chết? Là bác sĩ đang hành nghề, Haider Javed Warraich đã chứng kiến cả hai phía trong cuộc tranh luận đầy mỏi mệt này.
- Phạm Nguyên Trường dịch từ Haider Javed Warraich, When life is a fate worse than death, The Guardian, 20/7/2017.
Karen Ann Quinlan đã trải qua hai cuộc
đời. Ban đầu cô thuộc giới trung lưu bình thường ở Scranton,
Pennsylvania: Cô thường đi bơi, trượt tuyết, hẹn hò, tham gia thánh lễ
cùng với gia đình, cô đã tốt nghiệp trung học và làm việc cho một công
ty sản xuất đồ gốm ở địa phương. Nhưng, cuộc đời đã thay đổi sau khi cô
bị sa thải. Chẳng bao lâu sau, cô phải chuyển sang làm hết việc này đến
việc khác và phải giải sầu bằng thuốc an thần và rượu.
Đêm 14 tháng 4 năm 1975, Karen khi vừa
sang tuổi 21 đã dự tiệc cùng bạn bè tại một quán bar gần hồ Lackawanna.
Trong những ngày trước đó, cô gần như không ăn và không uống rượu, vì cô
đang tìm cách giảm cân cho vừa với bộ quần áo. Trong quán bar, cô uống
rượu gin và mấy viên thuốc an thần. Và trong đêm, cô ngã gục ngay trong
quán bar. Một người bạn đưa cô về nhà, nơi cô đang sống cùng với một
nhóm bạn. Chính ở đây, có người đã nhìn thấy Karen tắt thở từ trước rồi.
Bạn cô đã cứu cô bằng cách hô hấp nhân
tạo, nhưng sau đó người ta xác định rằng não của cô đã bị thiếu oxy
trong ít nhất là hai giai đoạn, mỗi lần kéo dài khoảng 15 phút. Người ta
gọi cho cứu thương. Một chiếc xe cứu thương chở cô tới một bệnh viện
địa phương, và cô được nối với máy thở cơ khí. Khi kiểm tra sức khoẻ,
các bác sĩ phát hiện ra rằng đồng tử của cô bất động: nó không co giãn
khi phản ứng với ánh sáng – phản xạ cơ bản nhất của con người. Cô cũng
không phản ứng với bất kỳ kích thích gây đau nào.
Trong ba ngày nằm viện, nhà thần kinh
học Robert Morse đã kiểm tra Karen. Trong các tài liệu toà án, ông viết
rằng ông thấy Karen bị hôn mê và có bằng chứng của cái gọi là “co cứng
mất vỏ não” – một tình trạng cho thấy phần đỉnh não đã xảy ra những tổn
thương nghiêm trọng – biểu hiện ra ngoài là hai chân cứng đơ và thẳng
còn hai cánh tay thì gập lại.
Tình trạng của Karen không hề được cải
thiện. Thực ra là ngày càng xấu hơn. Ngày nhập viện, cô nặng khoảng
52kg. Người ta đưa ống dẫn vào để bơm thức thức ăn và thuốc cho cô. Mặc
dù vậy, chỉ sau vài tháng cân nặng của cô chỉ còn chưa tới 32kg. Cha mẹ
cô, ông bà Quinlan, đều là những người Công giáo tận tụy. Họ phải vật
lộn với hoàn cảnh khi mà con gái họ hôn mê, bất động.
Trong hầu hết các trường hợp kiểu này,
thường thì gia đình và các bác sĩ sẽ cùng quyết định, hay các bác sĩ sẽ
tự quyết định rằng liệu có tiếp tục chữa trị nữa hay không. Năm tháng
sau ngày Karen nhập viện, ông Joseph Quinlan yêu cầu các bác sĩ dừng
chăm sóc và ngắt máy trợ thở.
Các bác sĩ chữa cho Karen là Robert
Morse và Arshad Javed đã từ chối lời đề nghị này. Để làm bác sĩ đỡ sợ bị
kiện tụng, Quinlan đã soạn thảo một văn bản nói rằng họ không phải chịu
bất kỳ trách nhiệm pháp lý nào. Nhưng các bác sĩ khăng khăng nói rằng
họ không muốn ngắt máy trợ thở của Karen.
Trên giường bệnh, Karen chỉ còn là một
cái xác không hồn và cô bắt đầu cuộc sống thứ hai của mình. Rõ ràng, cô
không phải là người duy nhất rơi vào tình trạng như thế. Trong thực tế,
có rất nhiều bệnh nhân khác rơi vào tình trạng như cô. Tuy nhiên, theo
các biến cố xảy ra, cô tới gần cái chết hơn bất kỳ ai khác. Karen dù
không phải là bệnh nhân đầu tiên rơi vào tình trạng này, nhưng chắc chắn
cô sẽ trở thành trường hợp được nhiều người biết tới nhất.
Tất cả các bác sĩ tham gia chăm sóc
Karen đều nhất trí rằng tiên lượng bệnh của cô là rất xấu. Họ cũng nhất
trí rằng cơ hội để cô thoát khỏi tình trạng hôn mê là gần như bằng
không. Nhiều bác sĩ lúc đó có thể đã đáp ứng nguyện vọng của ông bà
Quinlans, nhưng hai bác sĩ này lại không chịu. Nhìn lại quá khứ, tôi vẫn
còn khó tưởng tượng được rằng tôi sẽ làm gì nếu rơi vào hoàn cảnh của
họ.
Một mặt, Karen rơi vào tình trạng mà
chất lượng cuộc sống hầu như không phải là của con người. Cô lệ thuộc
vào máy trợ thở. Cô cần phải được đưa chất dinh dưỡng vào người, nhưng
cô vẫn bị suy dinh dưỡng nghiêm trọng. Và rõ ràng là, không có thứ công
nghệ hay sự can thiệp hiện có nào có thể giúp cô lấy lại bất kỳ chức
năng bình thường nào. Việc can thiệp không làm cho cô cảm thấy tốt hơn
theo bất cứ cách nào, và tiếp tục can thiệp cũng không làm cô cảm thấy
có gì khác biệt.
Tuy nhiên, lúc đó, tất cả những chuyện
này đã xảy ra trong chân không tuyệt đối về đạo đức và pháp lý. Các bác
sĩ được đào tạo để có thể tư duy độc lập và chữa trị cho những bệnh nhân
nằm trước mặt họ.
Mỗi ngày, các bác sĩ đều phải đối mặt
nhiều lần với những quyết định mang tính đạo đức. Hầu hết những lần như
thế họ đều làm những việc phù hợp với định hướng đạo đức của chính mình.
Những lúc như thế, họ thường không cảm thấy áy náy và phê phán hành
động của mình.
Thường thì họ sẽ tiếp tục làm việc và
tuân theo các nguyên tắc do họ tự đặt ra. Những thay đổi trong hoạt động
y tế gia tăng khi người ta đi vào vùng không có dữ liệu. Các quyết định
đạo đức khi người bệnh ở giai đoại cuối là những quyết định không có dữ
liệu và cơ sở pháp lý.
Trong trường hợp này, trong khi các bác
sĩ thống nhất rằng tương lai của Karen thật là khủng khiếp, nhưng họ
cũng công nhận rằng họ không có quyền về mặt pháp lý để ngừng chăm sóc
cô. Họ cũng phải thận trọng trước những hậu quả mà họ có thể phải đối
mặt nếu họ làm tự ý hành động.
Các bác sĩ nói rằng họ đã được cảnh báo
là các công tố viên có thể buộc họ tội giết người nếu họ ngắt máy trợ
thở – dường như đây là lời buộc tội chính đáng vì trước nay chưa có tiền
lệ. Cho nên việc họ cân nhắc về việc quyết định của mình có ý nghĩa như
thế nào trên phạm vi toàn cầu là việc làm đáng khen.
Đối với ông bà Quinlan, quyết định yêu
cầu ngưng trợ giúp con gái mình không phải là việc gì dễ dàng. Họ đã suy
nghĩ suốt mấy tháng liền. Joseph Quinlan đã nói chuyện với vị linh
mục ở địa phương, ông này cũng đồng ý ngưng chăm sóc, vì khả năng phục
hồi thấp của Karen. Khi họ quyết định rằng việc tiếp tục các biện pháp
“bất thường” là chống lại nguyện vọng của Karen, thì họ tuyệt đối tin
rằng mình làm đúng. Lúc đó họ quyết định khởi kiện và đưa vấn đề ra tòa.
Ông bà Quinlan có lẽ không nghĩ rằng họ vừa tạo ra một trong những vụ kiện quan trọng nhất trong thời đại của mình.
Tiền lệ không ủng hộ họ. Chỉ vài tuần
trước đó, tòa án New Jersey ở Newark đã không cho một người phụ nữ 39
tuổi, mắc bệnh bạch cầu giai đoạn cuối, được quyền từ chối ống dẫn thức
ăn. Đây cũng là thời điểm mà chứng hoang tưởng về việc thôi giúp đỡ
những bệnh nhân bị ốm nặng là rất cao. Thật vậy, trong tuyên bố mở đầu
phiên toà của mình, luật sư của bác sĩ Morse đã so sánh vụ kiện của
Quinlan với tội ác của Đức Quốc xã trong vụ diệt chủng người Do Thái.
Hàng trăm phóng viên từ các đài phát
thanh quốc gia chiếm phần lớn số ghế trong tòa án, đám đông tụ tập trên
các đường phố ở bên ngoài và tới tận bên ngoài ngôi nhà của gia đình
Quinlan.
Trong tác phẩm The Mansion of Happiness (Lâu đài hạnh phúc), Jill Lepore, giáo sư sử học ở Đại học Harvard và cây bút của tờ New Yorker,
viết: “Vấn đề Karen Quinlan đánh dấu bước chuyển đổi cơ bản trong lịch
sử chính trị Mỹ. Trong những thập kỷ sau Quinlan, tất cả các vấn đề của
chính sách đối nội được chuyển thành những vấn đề về sống và chết: khẩn
cấp, kiên quyết và tuyệt đối”.
Trường hợp Karen Ann Quinlan là bước đầu tiên trong cái mà ngày nay người ta gọi là phong trào “quyền được chết”.
Ngay trước phiên tòa người ta đã tiết lộ
rằng điện não đồ của Karen không hoàn toàn phẳng và thỉnh thoảng cô có
thể tự thở không cần máy trợ thở. Vì vậy, tất cả mọi người đều đồng ý là
Karen chưa chết. Đây là lần đầu tiên tòa án chính thức phân tích vô số
những phức tạp nảy sinh trong quá trình chăm sóc bệnh nhân giai đoạn
cuối, nhờ tới những tiến bộ công nghệ.
Chăm sóc bệnh nhân giai đoạn cuối đặt ra
những câu hỏi phức tạp và gây tranh cãi – chồng chéo giữa y học, thần
học và luật pháp, liên quan đến nhân phẩm, quyền riêng tư, và quyền tự
quyết.
Phiên tòa bắt đầu vào ngày 20 tháng 10
năm 1975, tại tòa thượng thẩm New Jersey, do thẩm phán Robert Muir Jr
làm chủ toạ và kéo dài khoảng hai tuần. Vụ xử này tạo ra khuôn mẫu cho
những vụ việc tương tự trong tương lai.
Quinlan đã nhận được hàng ngàn thư từ và
bưu phẩm, trong đó có nhiều thư từ những người chữa bệnh bằng đức tin,
nhiều người trong số đó tuyên bố có thể chữa được cho Karen. Lời xác
nhận của Joseph Quinlan khá đơn giản: Ông là người giám hộ của Karen và
do đó, được phép ngắt máy trợ thở của Karen và “cho phép cô được chết”.
Trong giai đoạn xử án, Joseph Quinlan
không phải là người giám hộ được chỉ định. Toà án không cho ông giữ vị
trí này, vì họ cho rằng ông muốn ngắt các thiết bị trợ giúp Karen. Do
đó, tòa chỉ định người luật sư bào chữa bán thời gian, Daniel Coburn,
làm người giám hộ pháp lý cho Karen. Coburn không đồng ý tháo máy trợ
thở.
Thẩm phán Muir tuyên bố về quyết định
ngắt máy trợ thở rằng: “để cho bác sĩ điều trị giải quyết việc này … Tôi
hài lòng khi mà cha mẹ có thể đồng ý, nhưng họ không có quyền quyết
định”. Nói cách khác, ông củng cố quan niệm hiện hành – rằng bác sĩ biết
rõ hơn tất cả mọi người. Tòa án không cho Joseph Quinlan quyền giám hộ
khi đưa vụ án ra xét xử.
Sau hai tuần ầm ĩ, thẩm phán Muir đưa ra
phán quyết cứng rắn. Ngày 10 tháng 11 năm 1975, ông tuyên bố rằng
Joseph Quinlan không phải là người giám hộ của bệnh nhân, và trách nhiệm
ra quyết định thuộc về các bác sĩ đang chăm sóc Karen.
Trong phán quyết của mình, vị thẩm phán
này nói: “Có một tiêu chuẩn cao hơn, trách nhiệm cao hơn, bao gồm việc
mạng sống của con người là duy nhất, tính chính trực của nghề y và thái
độ của xã hội đối với bác sĩ, và do đó, là đạo đức của xã hội. Một bệnh
nhân được đưa tới hay tự tới để được bác sĩ chăm sóc với mong muốn rằng
bác sĩ sẽ làm tất cả mọi việc trong sức lực của mình, mọi thứ mà y học
hiện đại đã biết, nhằm bảo vệ cuộc sống của bệnh nhân. Bác sĩ sẽ làm tất
cả trong khả năng của ông ta để ủng hộ cuộc sống, chống lại cái chết”.
Hai tháng sau quyết định nói trên, thủ
tục kháng cáo bắt đầu chính thức được khởi động tại tòa án tối cao New
Jersey. Sau hai tháng tranh cãi nữa, thẩm phán Hughes công bố bản án.
Các sự kiện không thay đổi gì nhiều sau
khi vụ việc lần đầu tiên được đưa ra tòa, nhưng dư luận xã hội thì lại
khác. Đã có thêm những cuộc tranh luận về hậu quả của “những biện pháp
bất thường”. Phán quyết cũng nhận xét rằng, kết thúc của cuộc đời con
người nằm ở sự giao nhau giữa luật pháp, y học và tôn giáo. Trong khi
niềm tin tôn giáo của nguyên đơn được thừa nhận và tôn trọng, thì định
nghĩa về cuộc sống và định nghĩa về cái chết chỉ được xem xét trong phạm
vi của y khoa.
Quan điểm của tòa án là, với tiên lượng
xấu, “không có sự quan tâm bên ngoài nào có thể buộc Karen phải chịu
đựng những điều không thể chấp nhận được, chỉ để sống vô vị một vài
tháng mà không có khả năng quay lại cuộc sống có nhận thức hay khôn
ngoan”.
Bản án đã lật ngược quyết định của tòa
án trước đó về việc không để Joseph Quinlan làm người giám hộ của Karen.
Quyết định để cha mẹ làm người giám hộ có nghĩa là sử dụng đánh giá tốt
nhất của gia đình về việc bệnh nhân sẽ chấp nhận lựa chọn nào, nếu họ
có khả năng và có thể nói ra được mong muốn của mình.
Một trong những điểm khác biệt lớn nhất
giữa quan điểm này và quan điểm trước đó là đưa bệnh nhân và thành viên
gia đình vào quá trình ra quyết định về mặt y tế. Trong phán quyết này,
thẩm phán Hughes khẳng định rằng không chỉ những bệnh nhân có quyền được
giữ hay bỏ những biện pháp chữa trị nhằm duy trì đời sống, mà người
giám hộ cũng có thể đưa ra quyết định như thế, nếu bệnh nhân không thể
đưa ra được quyết định. Phán quyết cũng tuyên bố rằng bác sĩ thực hiện
những yêu cầu như thế sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đây là cách thức ban hành quyết định vụ
án có ảnh hưởng nhất đến việc chăm sóc người bệnh giai đoạn cuối. Và
theo phán quyết này, quá trình chăm sóc người ốm giai đoạn cuối hiện nay
đã được đưa ra khỏi bóng tối và để cho thế giới chứng kiến.
Sự tiến bộ của công nghệ vượt xa trí
tưởng tượng của chúng ta không chỉ mang lại hy vọng cho nhiều bệnh nhân –
nếu không có công nghệ thì sẽ phải ốm đau – mà còn gióng lên những câu
hỏi về đạo đức vốn chưa từng có trong quá khứ.
Trong khi trường hợp của Karen Quinlan
cung cấp cho chúng ta tiền lệ đầu tiên về việc người giám hộ thay mặt
cho bệnh nhân – nếu bệnh nhân trước đó đã từng thể hiện mong muốn như
thế – đề nghị chấm dứt chữa trị, thì tháng 4 năm 1989 tình hình lại nóng
lên. Nó không diễn ra trong phòng xử án, mà trong một đơn vị chăm sóc
đặc biệt cho trẻ em, khi Rudy Linares rút ra một khẩu súng lục Magnum
357 đã nạp đạn ngay bên cạnh giường ngủ của con mình.
Tám tháng trước khi xảy ra cuộc khủng
hoảng này, một ngày đáng lẽ là bình thường đã trở thành thảm cảnh.
Samuel, đứa con 15 tháng tuổi của Rudy, trong một bữa tiệc sinh nhật đã
vô tình nuốt một quả bóng và bắt đầu nghẹt thở. Rudy đã tìm mọi cách để
cứu con. Khi Samuel bắt đầu trắng bệch ra, Rudy ôm bé vào lòng và chạy
đến trạm cứu hỏa gần nhất, vừa chạy vừa hét: “Cứu tôi! Cứu tôi! Con tôi
sắp chết!” Mặc dù Samuel đã được cứu sống, nhưng não của cậu bé không
thể hồi phục được và cậu phải sống đời sống thực vật kéo dài.
Sau nhiều tháng chịu đựng, Rudy đề nghị
các bác sĩ ngắt các thiết bị giúp duy trì cuộc sống cho Samuel. Họ đồng
ý, nhưng luật sư của bệnh viện lại cảnh báo họ là không được làm thế;
ông này nói rằng họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thời gian cứ thế trôi, sự thất vọng của
Rudy đã chuyển thành tuyệt vọng và sau đó thì trở thành giận dữ. Khi
bệnh viện gửi cho Rudy tin nhắn nói rằng họ đã chuyển Samuel đến cơ sở
điều dưỡng, một cảm xúc nào đó bên trong anh ta đã bùng nổ và anh ta
mang súng tới bệnh viện. Khi lôi khẩu súng lục ra, anh ta tuyên bố: “Tôi
không định làm hại ai. Tôi chỉ muốn để con trai tôi được chết”.
Rudy giật cái ống ra khỏi cổ họng con
trai mình. Chỉ vài giây sau, Samuel đã trở nên bất động, nhưng Rudy vẫn
ôm chặt con trong ít nhất 20 phút. Một bác sĩ đưa ống nghe lên ngực cậu
bé để xác nhận rằng tim của Samuel thực sự đã ngừng đập. Cuối cùng, Rudy
bỏ súng, bị bắt và bị buộc tội giết người.
Trong tòa án của công luận, Rudy là
người anh hùng. Bệnh viện cũng như tòa án đều không muốn trừng phạt anh
ta, mặc dù anh ta đã rơi vào vùng xám của luật pháp. Bồi thẩm đoàn cũng
vậy. Và trong khi Rudy không phải là ví dụ hoàn hảo trong việc nhấn mạnh
khía cạnh đạo đức của việc ngưng những phương pháp điều trị nhằm duy
trì cuộc sống – anh đã bị bắt nhiều lần vì tội bạo hành và chỉ hai tuần
sau khi tuyên bố là không phạm tội giết người, anh ta đã suýt chết sau
khi uống quá liều Pentachlorophenol (PCP), cocaine và rượu – thì dù sao
anh ta cũng đã làm được nhiều thứ hơn hầu hết các nhà đạo đức sinh học
trong việc nhấn mạnh vai trò của công nghệ đối với việc duy trì cuộc
sống cho người bệnh giai đoạn cuối.
Vào cuối những năm 1980 là thời kỳ người
Mỹ nổi dậy chống lại những thứ máy móc duy trì cuộc sống trong các bệnh
viện và nhà dưỡng lão. Một bác sĩ đã nắm bắt được tâm trạng của thời
đại khi ông viết: “duy trì cuộc sống” trở thành “cái chết kéo dài”;
“bệnh nhân không hồi phục được, nhưng cũng không chết. Thay vào đó, họ
trở thành những tù nhân của công nghệ”.
Quyền của người dân trong việc bỏ hay
tiếp tục những biện pháp điều trị nhằm duy trì cuộc sống được đưa lên
tòa án tối cao. Lần này là một cô gái trẻ bị tách khỏi đời sống trước
đây của mình – Nancy Cruzan, cô đang phải chiến đấu cho quyền được chết
cũng diễn ra trên sân khấu quốc gia.
Lần đầu tiên Nancy chết là vào tháng 1
năm 1983, chiếc xe của cô mất lái trên một con đường vắng vẻ và lao
xuống một cái mương đầy nước. Các nhân viên y tế đã đến hiện trường và
làm hô hấp nhân tạo cho cô. Nhưng trong khi tim của cô đập trở lại sau
15 phút, thì cơ thể cô lại không bao giờ thực sự hồi sinh. Cô rơi vào
đời sống thực vật kéo dài và không bao giờ tỉnh lại được.
Sau bốn năm trong một nhà dưỡng lão ở
Missouri, cha mẹ cô làm đơn xin được rút ống dẫn thức ăn cho cô, nhưng
hóa ra mọi việc không dễ dàng. Trong khi cha mẹ cô trình bày rằng trong
các cuộc trò chuyện trước đây, cô đã nói là không muốn sống đời sống
thực vật, nhưng nhà nước lại đòi bằng chứng cụ thể hơn. Toà án tối cao
bang Missouri tuyên bố rằng trong khi Nancy có quyền từ chối chữa trị,
người khác lại không có quyền quyết định thay cho cô.
Có hàng triệu người đồng cảm với gia
đình Cruzans, trong đó có một người có con gái cũng đang bị hôn mê.
Người này viết: “Trong suốt cuộc đời của con gái mình, tôi đã có nhiều
quyết định để dẫn dắt cháu vào tuổi trưởng thành và bây giờ, khi cháu
không có khả năng tự quyết định, thì nhà nước lại muốn thay thế cha của
cháu”.
Ông này còn viết thêm: “Vào phòng của
cháu chẳng khác gì vào phòng tang lễ… Nếu Rudy Linares, người đã ngăn
không cho các nhân viên y tế ở một bệnh viện ở Chicago, và viên cảnh sát
có súng, để anh ta có thể ‘cứu’ đứa con đang hấp hối của mình khỏi cái
máy trợ thở, thì có phải là khôn ngoan hơn hẳn các tòa án của chúng ta
hay không?”
Trong một quyết định quan trọng, tòa án
tuyên bố rằng đưa thức ăn và nước vào người một cách nhân tạo là biện
pháp điều trị y học. Trong vụ này, họ đã gặp những người chống đối cứng
rắn, đấy là những người khẳng định rằng việc rút ống dẫn thức ăn và nước
uống là tội sát nhân.
“Ngay cả một con chó ở Missouri cũng
không thể bị chết đói một cách hợp pháp”, Reverend Joseph Foreman, một
nhà vận động ủng hộ quyền sống (đây là phong trào chống phá thai – ND) ở
Atlanta nói. Những người biểu tình này không chỉ nhiều lần đưa vấn đề
này ra tòa, mà họ thậm chí đã xông vào cơ sở y tế đang nuôi Nancy nhằm
gắn lại ống dẫn thức ăn cho cô.
Mặc dù vậy, cuối cùng, tòa án đã công
nhận lời khai của các đồng nghiệp trước đây của Nancy Cruzan. Những
người này nói rằng cô không muốn sống đời sống thực vật, và tòa án cho
phép gia đình Cruzan tháo ống cung cấp thức ăn ra. Khoảng hai tuần sau,
Nancy kết thúc cái chết kéo dài và đau đớn, sau gần tám năm.
Trong khi xã hội, tòa án và các bác sĩ
bình thản chấp nhận việc chấm dứt chữa trị, thì điều thú vị cần ghi nhận
là, không có sự phân biệt rõ ràng giữa những biện pháp mang tính thụ
động hay gần như thụ động để làm cho người bị bệnh nan y chết và các
những biện pháp có tính chủ động hơn.
Trong khi, là bác sỹ, chúng tôi có những
quan niệm rõ ràng và ngay thẳng trong suy nghĩ để chúng tôi có thể hoàn
thành nhiệm vụ và làm việc của mình thì sự thật lại mù mờ hơn hẳn.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi đã biết thêm nhiều điều về
bản thân mình. Ngạc nhiên nhất là tôi nhận ra rằng mình đã đi đến kết
luận rằng chúng tôi phải làm nhiều hơn để thảo luận và giúp đỡ các bệnh
nhân giai đoạn cuối được quyền yêu cầu và có phương tiện nhằm chấm dứt
những đau khổ của họ, với sự giúp đỡ của bác sĩ.
Trong khi mỗi cuộc đời đều là duy nhất,
cái chết bao giờ cũng là sự chấm dứt, đau đớn và, nói chung, chẳng ai
thích. Hầu hết những người tự tử không muốn sống nữa chứ không phải là
muốn chết. Tất cả các bệnh nhân giai đoạn cuối cũng thế, cho đến nay,
tôi chưa thấy bệnh nhân nào nói một cách rõ ràng là muốn chết chỉ vì
chết. Dù sao, sống bao giờ cũng được đánh giá cao hơn khi người ta cố
gắng rời bỏ nó.
Một số người nói rằng y học hiện đại đã
làm nhiều việc nhằm kéo dài cái chết chứ không phải là kéo dài cuộc sống
có ý nghĩa. Trong khi tôi không đồng ý với khái niệm này, thì có rất
nhiều bệnh nhân đã chết sau khi trải qua giai đoạn suy nhược và đau khổ
kéo dài. Khi y tá và bác sĩ nhìn vào những bệnh nhân này, họ thường nghĩ
rằng những người đó có chất sống thấp hơn hẳn so với bệnh nhân tự nghĩ.
Đấy không phải là điều đáng ngạc nhiên, vì bệnh nhân thường thích ứng
với những bất tiện đi kèm với bệnh tật của họ. Đại đa số người bệnh đều
muốn làm mọi thứ trong điều kiện có thể chấp nhận được nhằm kéo dài cuộc
sống càng lâu càng tốt.
Trong một ít trường hợp đau khổ và bi
kịch, cuộc sống được coi là đau khổ và tuyệt vọng. Những bệnh nan y, cho
dù đó là ung thư hay xơ gan, làm mất bản chất chân chính của đời sống
của bệnh nhân. Lúc đó, các bác sĩ có thể giúp họ giảm bớt đau đớn với
nhiều mức độ khác nhau. Các bác sĩ hoặc y tá chăm sóc bệnh nhân giai
đoạn cuối có thể phát thuốc giảm đau, thuốc benzodiazepin để bớt lo âu
và thuốc chống nôn. Dù rằng những loại thuốc này còn lâu mới hoàn hảo.
Thuốc giảm đau làm người ta buồn ngủ, loạng choạng và lẫn trí, và mặc dù
những loại thuốc này có thể giảm đau, nhưng cũng thường xuyên gây ảnh
hưởng đến hoạt động của bệnh nhân.
Các loại thuốc giảm đau cũng gây ra
những tác động riêng: Vừa nhìn thấy các loại thuốc giảm đau là cơ thể
lập tức phản ứng bằng cách gia tăng số cơ quan cảm nhận trong các neuron
thần kinh, nghĩa là ngày càng cần liều lượng cao hơn.
Càng gần giai đoạn cuối thì càng cần
những biện pháp can thiệp mạnh hơn. Trong năm cuối đời, một phần ba
người Mỹ phải phẫu thuật, trong đó, một phần năm phải phẫu thuật trong
tháng cuối cùng của cuộc đời.
Do những vụ phẫu thuật này được thực
hiện khi người ta đã gần chết, không chắc được là những vụ mổ xẻ đó có
mang lại bất kỳ lợi ích nào hay không. Một phần năm bệnh nhân cũng trải
qua những biện pháp can thiệp nhằm duy trì cuộc sống như dùng tới máy
trợ thở, hô hấp nhân tạo và bơm thức ăn trong sáu tháng cuối cùng của
cuộc đời.
Khi số bệnh nhân nhập viện, số vụ can
thiệp y tế và các đơn thuốc cứ tăng dần, tăng dần và dường như cơn bão
này sẽ không bao giờ giảm, thì người ta cũng nhận thức được rằng sóng
thần cũng chẳng còn gì mà phá nữa. Phần lớn những bệnh nhân này hay
người nhà của họ lúc đó quyết định ngưng các biện pháp nhằm duy trì cuộc
sống, vì cuối cùng họ chấp nhận chấm dứt cuộc chiến quá mệt mỏi và kéo
dài quá lâu rồi.
Ngày xưa, giai đoạn cuối người ta thường
nằm trên giường sau một cơn bạo bệnh, ngắn và nhanh. Ngày nay, cái chết
trên thực tế thường diễn ra như sau: Người bị bệnh, cảm thấy đỡ hơn,
nhưng không bao giờ trở lại như cũ, ngày càng có nhiều chẩn đoán và biện
pháp điều trị, cho tới khi rõ ràng (thường là khá muộn) là có can thiệp
nữa cũng chẳng cải thiện được gì.
Quá trình điều trị kéo dài và đôi khi là
tràn lan có thể có ý nghĩa đối với đại đa số bệnh nhân. Nhưng đối với
một số ít người quyết định không kéo dài đời sống theo cách này thì một
số bang ở Mỹ đã tạo ra những biện pháp và đưa ra các quy định nhằm giúp
họ kiểm soát việc chấm dứt đời sống bằng cách chết với sự giúp đỡ của
nhân viên y tế. Đối với phần lớn những người chọn cách này, nếu đấy
không phải là kết thúc có hậu thì cũng là kết thúc mà họ mong muốn.
Tại sao các bác sĩ lại là những người chống đối mạnh mẽ nhất việc trợ tử?
Các bác sĩ được đào tạo để trị bệnh. Các
bác sĩ được đào tạo nhiều năm, nhiều tháng, nhiều ngày một cách nghiêm
túc để tìm cách chữa triệu chứng hay tái tạo cân bằng điện giải của một
người nào đó hoặc cắt một khối u hay mở một mạch máu. Bệnh nhân và gia
đình của họ cảm thấy khó tới mức nào khi quyết định chấm dứt cuộc sống
thì các bác sĩ cũng không bao giờ sẵn sàng làm những việc mà họ không
được đào tạo.
Đối với nhiều bác sĩ, việc giúp người ta
chết còn có rủi ro là họ đang gửi thông điệp lẫn lộn cho các bệnh nhân.
Các bác sĩ cho rằng niềm tin là nền tảng của mối quan hệ giữa bác sĩ và
bệnh nhân, và cho các bác sĩ quyền giết người có thể làm thay đổi quan
niệm của bệnh nhân khi thấy bác sĩ đến gần mình vào ban đêm.
Sự thật là, nhiều người, cả người bình
thường và lẫn những người làm trong ngành y đã chấp nhận những hành động
rất gần với việc giúp bệnh nhân nan y chết, nếu không nói là không thể
phân biệt được.
Đối với các bác sĩ, cho uống thuốc ngủ
cho đến chết, để mất nước đến chết, thậm chí ngưng những biện pháp chăm
sóc bất thường hay ngưng các phương pháp điều trị nhằm kéo dài đời sống
khác hẳn với việc giúp bệnh nhân chết, nhưng đối với những người bình
thường thì sự khác biệt là không rõ ràng. Dù có làm xáo trộn vấn đề thế
nào chăng nữa, thì bệnh nhân cũng không có quyền quyết định cách thức
mình chết mà do những người được uỷ quyền và bác sĩ quyết định, mà những
người này lại không thể nào biết được sở thích của bệnh nhân.
Trong quá trình học tập, tôi được dạy
rằng đạo đức nghề nghiệp của chúng tôi được hình thành bằng cách tôn
trọng người bệnh. Nhưng sau khi nói chuyện với các bệnh nhân, các bác
sĩ, y tá, hộ lý và các nhà nghiên cứu, và suy ngẫm về những việc diễn ra
hàng ngày, thì tôi hiểu rõ rằng phần lớn những gì được coi là tiêu
chuẩn trong việc chăm sóc bệnh nhân giai đoạn cuối là có ích. Đó là sự
tiến triển của công nghệ và kỹ thuật y tế đã thúc đẩy cuộc đối thoại,
trong khi bệnh nhân và thậm chí cả các bác sĩ tìm cách giữ nguyên.
Trung tâm của cuộc thảo luận và chưa
được giải quyết là định nghĩa về việc gây hại. Chủ đề trung tâm mà những
người chống việc trợ tử đưa ra là châm ngôn đã có từ lâu: “Không được
làm hại”. Nhưng hại là gì? Bệnh nhân được điều trị nhưng họ không muốn
thì có phải là họ bị làm hại hay không? Các biện pháp chữa trị quá vô
ích có phải là hại không? Cái chết kéo quá dài, mà người ta không muốn
sống nữa có phải là hại không? Và, có lẽ quan trọng nhất là, cái chết mà
người ta có thể không muốn có làm hại không?
Khi người Hy Lạp cổ đại tạo ra từ
“euthanasia” (giúp người bệnh chết), là họ đã tìm cách trả lời câu hỏi
mà chúng ta vẫn còn phải vật lộn: Chết là gì? Đấy có lẽ là câu hỏi quan
trọng và khó khăn nhất mà chúng ta từng gặp, nói cho cùng, làm sao mà
mất mát lớn nhất là cuộc sống lại có thể coi là tốt? Tương tự như một cỗ
máy có tổ chức, người bệnh chiến đấu kiên cường không phải để ngăn ngừa
cái chết, mà để sống một cách có thể chịu đựng được. Đây là những câu
hỏi cấp bách nhất của thời đại chúng ta: Người bệnh muốn chấm dứt cuộc
sống như thế nào và phải làm gì để giúp họ toại nguyện. Nhưng mặc cho
tất cả tiến bộ mà chúng đã đạt được, chúng ta vẫn chưa giải quyết được
một cách trọn vẹn những câu hỏi này.
—
Đây là trích đoạn từ tác phẩm Modern Death: How Medicine Changed the End of Life của Haider Javed Warraich, do Duckworth xuất bản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét