DẪN NHẬP:
Vậy
mà đã 62 năm kể từ khi Liên Hiệp Quốc khai sinh Ủy Ban Sông Mekong
[1957] và cũng đã 24 năm từ ngày thành lập Ủy Hội Sông Mekong[1995].
Tính đến nay 2019, Bắc Kinh đã xây xong 11 con đập thủy điện khổng lồ /
mega-dams (6,7) chắn ngang dòng chính sông Lancang Jiang, tên Trung Quốc
của con Sông Mekong chảy trong lãnh thổ TQ với lượng điện sản xuất đã
lên tới 21,300 MW và TQ vẫn đang tiếp tục xây thêm 19 con đập khác; Thái
Lan ngoài các con đập phụ lưu, còn có kế hoạch chuyển dòng lấy nước từ
sông Mekong, và nay hai nước Lào và Cambodia còn có thêm dự án 12 đập
dòng chính hạ lưu. Ngoài ra còn hàng trăm con đập phụ lưu đã và đang xây
trên khắp lưu vực Sông Mekong, kể cả trên Cao nguyên Trung phần Việt
Nam.
Khi
mà hai con đập lớn nhất Nọa Trác Độ / Nuozhado 5,850 MW và Tiểu Loan /
Xiaowan 4,200 MW đã hoạt động phát điện toàn công xuất, có thể nói về
tổng thể Trung Quốc đã hoàn tất phần lớn nhất kế hoạch thủy điện bậc
thềm Vân Nam với 40 tỉ mét khối nước dự trữ trong các hồ chứa, tích luỹ
trên 50% lưu lượng dòng chảy trung bình hàng năm và chặn 90% phù sa từ
thượng nguồn, đủ cho TQ nắm quyền sinh sát toàn lưu vực sông Mekong.
Không
hề có dấu hiệu nào các dự án xây đập thủy điện trên suốt dọc chiều dài
sông Lancang-Mekong sẽ chậm lại. Với 11 con đập Vân Nam, nay thêm 4 con
đập dòng chính ở Lào: đập Xayaburi và Don Sahong đã hoàn tất (2019), đâp
Pak Beng và Pak Lay đang triển khai, các quốc gia trong lưu vực dưới
Sông Mekong đang phải hứng chịu những hậu quả nhãn tiền:
1/
Bắc Thái Lan, Tháng 7 vừa qua, do khúc sông Mekong cạn dòng với cá
chết, đồng lúa khô cháy, Thủ Tướng Thái Lan phải kêu gọi TQ cứu nguy xả
nước từ con đập Cảnh Hồng, Thái cũng yêu cầu Lào tạm ngưng hoạt động
phát điện từ con đập Xayaburi; mà cũng Thái Lan là khánh hàng chính mua
điện từ cả hai con đập này. (4)
2/
Biển Hồ trái tim của Cambodia mực nước xuống thấp nhất, có nơi trơ đáy
cho dù đã quá giữa mùa mưa; do mất nhịp đập của lũ / Mekong flood pulse,
con sông Tonle Sap không thể đổi chiều, đưa nước chảy ngược lên Biển
Hồ, như vậy có thể sẽ không còn Lễ hội Nước Bon Om Tuk truyền thống hàng
năm nơi Quatre Bras, Phnom Penh.
3/
Đồng Bằng Sông Cửu Long, năm nay 2019 cho đến tháng 7 qua cuối tháng 8
nước lũ thượng nguồn đổ về vẫn quá ít, mực nước ở Tân Châu và Châu Đốc
xuống cực thấp – phá cả kỷ lục thấp nhất của năm hạn hán 2016, không chỉ
ngư dân mất nguồn cá mà nông dân thì thấy trước không có đủ nước cho vụ
lúa sắp tới và còn phải hứng chịu thêm một thảm họa kép: do không có
sức đẩy của nguồn nước ngọt thượng nguồn, nạn nhiễm mặn sẽ trầm trọng
hơn và đang lấn sâu hơn nữa vào vùng châu thổ. (5)
Câu
hỏi khẩn thiết đặt ra là: 70 triệu cư dân trong Lưu vực Sông Mekong và
ngót 20 triệu dân vùng ĐBSCL sẽ phải làm gì để thích nghi và sống còn,
trước khi tình thế không thể đảo nghịch?
Ủy
Hội Sông Mekong / MRC bao gồm Ủy Ban Sông Mekong Việt Nam trong ngót
một phần tư thế kỷ qua đã chứng tỏ vô hiệu, nếu không muốn nói là gián
tiếp đồng lõa cho các dự án đập thủy điện hiện nay. Chính Việt Nam cũng
xây các đập thủy điện trên các phụ lưu Sông Mekong, cũng là khách hàng
quan trọng mua thủy điện của Lào và Cambodia và cả đầu tư góp vốn cho
các dự án xây đập của hai quốc gia này…
BS
Ngô Thế Vinh, tác giả cuốn CLCD BĐDS xuất bản từ năm 2000, cùng với
nhóm Bạn Cửu Long, từng theo dõi và lên tiếng báo động liên tục về một
Lưu Vực Sông Mekong và ĐBSCL trước nguy cơ. (1) Và đây là một bài viết
cập nhật tháng 8, 2019, với một nhận định khá bi đát là: Việt Nam đã bị
thất thủ chiến lược trên địa bàn Sông Mekong – và ĐBSCL đang đứng trước
nguy cơ bị tan rã. Việt Ecology Foundation
KHỞI ĐI TỪ MỘT SAI LẦM CHIẾN LƯỢC
Qua
ngót một phần tư thế kỷ, kể tử ngày 5 tháng 4 năm 1995 khi ngoại trưởng
Nguyễn Mạnh Cầm đại diện cho Việt Nam đặt bút ký Hiệp Định về Hợp Tác
Phát triển Bền vững Lưu vực Sông Mekong, Việt Nam đã phạm một sai lầm
chiến lược là từ bỏ quyền phủ quyết / Veto Power, một điều khoản hết sức
quan trọng đã có trong Hiệp Định Ùy Ban Sông Mekong 1957 (Mekong River
Committee) vì Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn. Người viết cách đây
ngót 2 thập niên đã đưa ra nhận định là Ủy Hội Sông Mekong 1995 (Mekong
River Commission) là một “biến thể và xuống cấp” so với Ủy Ban Sông
Mekong 1957 thời Việt Nam Cộng Hòa trước đây.
Rồi
trải qua bao nhiêu Hội nghị Thượng đỉnh từ cấp Thủ Tướng tới hàng Bộ
trưởng, vẫn không có một nỗ lực cụ thể hay tiếng nói mạnh mẽ nào từ Việt
Nam để cùng các quốc gia trong lưu vực thực hiện những điều tối thiểu
đã giao kết trong Hiệp Định về Hợp Tác Phát triển Bền vững Lưu vực Sông
Mekong 1995. Và không phải là ngẫu nhiên mà ĐBSCL mới mau chóng phải đối
đầu với một thảm họa môi sinh như hôm nay.
CẢNH ĐỒNG SÀNG DỊ MỘNG
Khi
mà trong mỗi kế hoạch khai thác Sông Mekong đã ẩn chứa những mâu thuẫn
sâu xa về quyền lợi giữa các nước thành viên nếu chỉ đứng trên quan điểm
quốc gia hạn hẹp. Không dễ gì vượt qua trở ngại ấy nếu không có được
một mẫu số chung – một Tinh Thần Sông Mekong, với không khí đối thoại
cởi mở dẫn tới sự tin cậy để cùng nhau tính toán từng bước thận trọng
trên quan điểm phát triển bền vững / sustainable development cho toàn
lưu vực.
Cho
dù từ những thập niên 1950, 1960 Ủy Ban Sông Mekong 1957 đã có những kế
hoạch vĩ mô xây dựng các đập thủy điện lớn trên sông Mekong nhằm thăng
tiến kinh tế cho cho vùng hạ lưu nhưng đã bị gián đoạn do cuộc Chiến
tranh Việt Nam, khiến cho con sông Mekong vẫn còn giữ được vẻ hoang dã
và cả sự nguyên vẹn thêm một thời gian nữa.
Và
để rồi, bắt đầu từ thập niên 1970, Trung Quốc như một “kẻ đến sau”
nhưng đã nhanh chóng có cả một kế hoạch vĩ mô khai thác nguồn thủy điện
phong phú của sông Lancang-Mekong với hàng loạt các dự án đập khổng lồ
trên khúc sông chiếm hơn nửa chiều dài Sông Mekong 4,800 km nằm trong
lãnh thổ Trung Quốc. Và kết quả Bắc Kinh, tuy là “kẻ đến sau nhưng đã về
trước” và tính đến nay, Trung Quốc hoàn tất 11 con đập khổng lồ trên
khúc sông Lancang-Mekong (6,7) bắt nguồn từ Tây Tạng xuống Vân Nam và
Trung Quốc hiện nay đã nắm trong tay 40 tỉ mét khối nước của con Sông
Lancang-Mekong.
TỪ NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỐI NGHỊCH
Quan
điểm từ Trung Quốc: ngay từ đầu Bắc Kinh đã từ chối không muốn tham gia
vào Ủy Hội Sông Mekong bao gồm 4 nước: Lào, Thái, Cambodia và Việt Nam,
để hoàn toàn không bị ràng buộc vào những điều khoản trong Hiệp Định về
Hợp Tác Phát triển Bền vững Lưu vực Sông Mekong 1995, với mục đích Bắc
Kinh có toàn quyền tự do khai khác con Sông Lancang-Mekong [Lancang
Jiang tên Trung Quốc của con Sông Mekong] chảy trong lãnh thổ Trung
Quốc, bất chấp hậu quả tiêu cực xuyên biên giới / transboundary negative
effects ra sao đối với các quốc gia hạ nguồn. Điển hình là hai trận hạn
hán khốc liệt 2016 rồi 2019 nơi vùng hạ lưu trong khi Trung Quốc vẫn
giữ một khối nước rất lớn trong các hồ chứa thủy điện của mình.
Trận
hạn hán tháng 4, 2016, khi mà Trung Quốc tiếp tục trữ nước trong các
con đập, trực tiếp nhất là trong hồ chứa con đập Cảnh Hồng khiến mực
nước xuống hạ lưu thấp tới mức kỷ lục, không chỉ ở vùng Đông Bắc Thái
nằm ngay dưới chân chuỗi đập Vân Nam chịu tác động trực tiếp, mà ngay ở
nơi xa nhất cuối nguồn với ngót 20 triệu cư dân nơi ĐBSCL cũng vô cùng
khốn đốn vì thiếu nước. Điều khá hài hước, là Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn
Tấn Dũng lúc đó chỉ còn biết kêu cứu Bắc Kinh xả nước từ hồ chứa đập
Cảnh Hồng, điều mà trong thâm tâm Trung Quốc chẳng hề muốn làm, và rõ
ràng Việt Nam hoàn toàn bị “thất thủ chiến lược” trước trận chiến môi
sinh / ecological warfare” vô cùng thâm độc của Trung Quốc.
Trận
hạn hán tháng 7, 2019, Trung Quốc lại một lần nữa không hề báo trước,
giữa mùa mưa ít vẫn tiếp tục lấy nước vào các hồ chứa khiến cư dân Bắc
Thái bị ngay một trận hạn hán của thế kỷ, đồng ruộng khô cháy, khúc Sông
Mekong trơ đáy với cá chết. Lần này thì đến lượt Thủ Tướng Thái Lan
Prayut Chan-o-cha phải kêu gọi Bắc Kinh xả nước từ đập Cảnh Hồng để cứu
cho nông và ngư dân vùng Bắc Thái. (4) Không chỉ có vậy, như một chuỗi
phản ứng dây chuyền, ba nước Lào – Cambodia – Việt Nam chịu những hậu
quả hạn hán khốc liệt không kém. Biển Hồ chưa bao giờ cạn nước đến như
thế, có nơi trơ đáy khiến ghe thuyền mắc cạn [Hình 5], không phải chỉ
hơn 1.5 triệu cư dân Cambodia sống quanh Biển Hồ khốn đốn vì hạn hán mà
ĐBSCL cũng đang chịu những “cơn đau thắt ngực” do trái tim Biển Hồ đang
bị thiếu nước trầm trọng.
Và
rồi là những ngụy biện của Trung Quốc: để tự bào chữa cho các con đập
thuỷ điện khổng lồ Vân Nam, các công trình sư Tàu đã lý luận rằng các hồ
chứa đập thuỷ điện ở thượng lưu có chức năng rất hữu ích: điều hoà dòng
chảy con sông Mekong cho các quốc gia hạ nguồn: giữ nước trong Mùa Mưa
làm giảm thiệt hại do lũ lụt nơi hạ nguồn và rồi trong mùa khô cũng vẫn
những hồ chứa các con đập ấy xả nước xuống hạ lưu nhiều hơn lưu lượng tự
nhiên… Lý luận giản đơn và ngụy biện ấy cho đến nay vẫn khiến một số
người tin – kể cả giới khoa bảng; nhưng thực tế thì không diễn ra như
vậy, và chuỗi đập Vân Nam đang mang tới thảm họa chứ không hề mang lại
những lợi ích mà Bắc Kinh luôn rêu rao.
KS
Phạm Phan Long, Việt Ecology Foundation trong bài viết mới đây trên
VOA, đã nhận định: “Do Biến đổi Khí Hậu, mưa ít dần trên lưu vực là có
thật nhưng hạn hán sớm hơn và khắc nghiệt hơn khi thiếu mưa là do vận
hành các hồ chứa thủy điện, chính chúng có khả năng gây ra hạn hán cả
khi có mưa, chưa kể vào những năm ít mưa, tích trữ nước gây hạn hán càng
thêm kinh khủng.” (3)
…
Rất sớm, từ hơn 10 năm trước (05/2009), Chương Trình Môi Sinh Liên Hiệp
Quốc đã phải lên tiếng cảnh báo rằng “chuỗi đập Vân Nam là mối đe dọa
duy nhất – lớn nhất / the single greatest threat” đối với tương lai và
sự phồn vinh của con Sông Mekong, sẽ giết chết nhịp đập thiên nhiên của
dòng sông / Mekong flood pulse, với con Sông Tonle Sap chảy hai chiều
vốn như một hiện tượng thiên nhiên kỳ quan của thế giới.
Aviva
Imhoff , nguyên giám đốc truyền thông Mạng Lưới Sông Quốc Tế IRN, cũng
đưa ra nhận định: Trung Quốc đang hành xử một cách hết sức vô trách
nhiệm. Chuỗi đập Vân Nam sẽ gây ra những tác hại vô lường nơi hạ lưu,
gây rối loạn toàn hệ sinh thái con sông Mekong xa xuống tới Biển Hồ, nó
như một chuông báo tử cho ngư nghiệp và nguồn cá vốn là thực phẩm của
ngót 70 triệu cư dân sống ven sông.
Quan
điểm từ Thái Lan: ngoài việc xây đập thủy điện trên các phụ lưu như đập
Pak Mun 136 MW (1994) trên sông Mun, và cả kế hoạch chuyển dòng lấy
nước từ Sông Mekong vào những hồ chứa nhằm cung cấp nước cho các cánh
đồng lúa ở miền Trung và Đông Bắc Thái. Cũng chính công ty Thái Lan Ch.
Karchang đã giúp Lào xây con đập dòng chính đầu tiên Xayaburi vùng hạ
lưu, và quan trọng hơn nữa Thái Lan là khách hàng chính mua 95% lượng
thủy điện của Lào qua Công ty EGAT / Electricity Generating Authority of
Thailand, như thêm động lực tạo thuận cho Vientiane phát triển thêm về
thủy điện trên khắp nước Lào. Và cần nói thêm, chính Thái Lan cũng là
khách hàng chính mua thủy điện của TQ từ con đập Cảnh Hồng 1,750 MW hoạt
động từ 2008. Cảnh Hồng hiện đang là con đập thủ phạm trực tiếp gây họa
khiến cư dân các tỉnh bắc Thái đang phải kêu trời.
Quan
điểm từ Lào: là một quốc gia tương đối nghèo nhất trong vùng, với những
người Lào thấy được tiềm năng thủy điện phong phú của con Sông Mae Nam
Khong [tên Lào-Thái của Sông Mekong], Lào nuôi giấc mơ canh tân, họ muốn
biến đất nước Lào trở thành một xứ “Kuwait về thủy điện Đông Nam Á” hay
“Bình điện Á Châu / Asia’s Battery”. Nam Ngum 150 MW là con đập thuỷ
điện phụ lưu đầu tiên của Lào và được hoàn tất rất sớm từ 1971 giữa
giông bão của cuộc chiến tranh Việt Nam. [Hình 3] Sau đó, trong suốt hơn
bốn thập niên, Lào đã và đang liên tục xây vô số các đập thủy điện trên
những phụ lưu Sông Mekong, trong đó phải kể các con đập phụ lưu rất lớn
như Nam Theun-2 900 MW, Theun Hinboun… và nay tới kế hoạch triển khai
xây 9 con đập dòng chính trên Sông Mae Nam Khong mà con Domino đầu tiên
là đập Xayaburi, tới con đập thứ hai Don Sahong và còn tiếp tục xây tiếp
các con đập khác: Pak Beng con đập thứ ba đang xây, và Pak Lay dự án
thủy điện dòng chính thứ tư, đã qua giai đoạn tham vấn rất tượng trưng
và chắc chắn Lào sẽ tiến hành xây những con đập dòng chính bất chấp
những tác hại tiêu cực xuyên biên giới đặc biệt là Đồng Bằng Sông Cửu
Long ra sao.
Không
chỉ Trung Quốc lưu giữ 40 tỉ mét khối nước hay 53% vũ lượng hàng năm
của lưu vực Lancang-Mekong; Lào cũng cất giữ 30 tỉ mét khối nước hay 18%
vũ lượng hàng năm của lưu vực dưới Sông Mae Nam Khong, tên khúc Sông
Mekong trên đất Lào. Cũng phải kể ảnh hưởng tác hại của hệ thống đập
thủy điện phụ lưu của Lào đối với hai quốc gia dưới nguồn là Cambodia và
Việt Nam rất đáng kể kể đối với tình trạng dòng chảy, lượng phù sa và
nguồn cá trong lưu vực sông Mekong.
Quan
điểm từ Cambodia: Hun Sen, Thủ tướng lâu năm nhất của Cambodia và của
cả thế giới, đã luôn luôn phủ nhận ảnh hưởng tác hại của các con đập
thủy điện thượng nguồn đối với dòng chảy Sông Tonle Thom (tên Cambodia
của con Mekong) và chấp nhận vô điều kiện kế hoạch xây đập của Trung
Quốc trên thượng nguồn, cho dù chính sách ấy đi ngược với tất cả tiếng
nói của các nhà bảo vệ môi sinh và ngót 70 triêu cư dân ven sông.
Rất
sớm, từ tháng 7 năm 2005, Thủ tướng Hun Sen, khi sang dự Hội Nghị
Thượng Đỉnh Côn Minh, đã tỏ ra thỏa mãn với tình hình khai thác con Sông
Mekong, theo ông chẳng có vấn đề gì phải quan tâm. Ông công khai lên
tiếng ủng hộ Bắc Kinh, đối với kế hoạch khai thác sông Mekong, ông còn
cho rằng các ý kiến chỉ trích chỉ để chứng tỏ họ chú ý tới môi sinh, và
họ dùng đó như thứ rào cản nhằm ngăn sự hợp tác nên có giữa 6 quốc gia.
(Hunsen backed China's often-criticized development plans for the Mekong
River, AFP Phnom Penh, June 29, 2005)
Năm
năm sau, tháng 11 năm 2010, TT Hun Sen, sau Hội Nghị Thượng Đỉnh
ACMECS* ở Phnom Penh, đã lên tiếng bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh hưởng
của các đập thủy điện trên thượng nguồn đối với dòng chảy Sông Mekong.
Ông khẳng định rằng chu kỳ lũ lụt hay hạn hán là hậu quả của thay đổi
khí hậu / climate change chứ chẳng liên hệ gì tới chuỗi những con đập
thủy điện của Trung Quốc. (The Phnom Penh Post, Nov 17, 2010)
Trái
hẳn với nhận định của TT Hunsen, cần nên ghi lại nơi đây những sự kiện
phải nói là bi quan, liên quan tới Biển Hồ, Sông Tonle Sap và con Sông
Mekong ngay trong thập niên đầu của thế kỷ 21:
Trên
trang web World Wide Fund for Nature, đã ghi nhận: mực nước con sông
Mekong tụt thấp xuống tới mức báo động kể từ 2004 và trở thành những
hàng tin trang nhất trên báo chí. “Trung Quốc làm kiệt mạch sống sông
Mekong_ New Scientist”; “Sông Mekong cạn dòng vì các con đập Trung Quốc_
Reuters AlertNet”; “Xây đập và con sông chết dần_ The Guardian”; “Sông
cạn do các con đập Trung Quốc_ Bangkok Post”. Hầu hết đều mạnh mẽ quy
trách cho việc xây các con đập thủy điện của Trung Quốc trên khúc sông
thượng nguồn.
Theo
Fred Pearce, tác giả cuốn sách “Khi Những Con Sông Cạn Dòng, Nước –
Khủng Hoảng của Thế Kỷ 21” xuất bản 2006, trong chương viết về con sông
Mekong, đã có ghi nhận:
...
“Cuối năm 2003 và đầu năm 2004 là thời gian tuyệt vọng trên Biển Hồ.
Cơn lũ về thấp hơn. Thời điểm con sông Tonle Sap chảy ngược vào Biển Hồ
đến trễ hơn và cũng chấm dứt sớm hơn. Thay vì 5 tháng con sông đổi dòng
nay chỉ còn có 3 tháng. Rừng thiếu ngập lũ và cá thì không đủ thời gian
để tăng trưởng... Và mùa thu hoạch cá chưa bao giờ thấp như vậy. Tại
sao? Đa số ngư dân đổ tại con sông cạn dòng. Khi con nước cạn trước
Hoàng cung, thì sẽ không có cá dưới sông.”
Không
ai tin rằng, ông Thủ tướng Hun Sen lại có thể không biết tới “Hồi
Chuông báo Tử” ấy, nhưng ông Hun Sen đã cố tình phủ nhận điều này do nhu
cầu chính trị ngắn hạn “lấy lòng Trung Quốc” trong thời gian cầm quyền.
Nhưng rồi ra, cái giá rất cao phải trả sẽ là tương lai của dân tộc Cam
Bốt và cả nền văn minh xứ Chùa Tháp.
Mới
đây, tháng 10, 2017 TT Hun Sen khi chủ trì lễ khánh thành đập thủy điện
Hạ-Sesan-2 ở Stung Treng, với công suất 400 MW và diện tích hồ chứa 340
km2 gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singapore trở thành con đập lớn
nhất trong số 7 đập thủy điện của Cambodia do Công ty Hydrolancang của
Trung Quốc nắm 51% cổ phần, Tập đoàn Hoàng gia Cambodia nắm 39% cổ phần
và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nắm 10% cổ phần, và đáng nói là
nguồn điện của đập Hạ-Sesan-2 sẽ được xuất cảng sang Việt Nam.
Quan
điểm từ Việt Nam: một Việt Nam vừa thỏa hiệp vừa bị động từ 1975, 1995
và cho tới nay. Việt Nam cũng đã xây các hồ chứa đập thủy điện trên các
phụ lưu Sông Mekong trên cao nguyên Trung phần, như con đập Yali 720 MW
(1996) trên sông Krong B’Lah ranh giới 2 tình Kontum và Gia Lai; các con
đập khác trên sông Sesan và Seprok là phụ lưu Sông Mekong. Con đập Yali
đã bị các cộng đồng cư dân các tỉnh đông bắc Cambodia lên án do làm cạn
kiệt nguồn cá và cả những lần xả nước từ hồ chứa mà không thông báo
trước đã bất ngờ gây lũ lụt, làm tổn thất tài sản và cả nhân mạng cho cư
dân Cambodia phía dưới con đập. Hồ chứa những con đập phụ lưu của Việt
Nam chẳng phải là vô can trong tình trạng thiếu nước khô hạn nơi ĐBSCL.
Một
“chiến lược không chiến lược” lại có chính sách “nước đôi / double
standard”, một mặt Việt Nam cần nước, mặt khác lại có chính sách đi mua
thủy điện của Lào, của Cambodia và đi xa hơn nữa là đầu tư vào các công
trình thủy điện của Lào như dự án đập dòng chính Luang Prabang của
PetroVietnam, đập thủy điện Hạ Sesan-2 của Cambodia.
Trước
những tác hại hiển nhiên của các con đập trên ĐBSCL: biến đổi dòng
chảy, mất nguồn nước, mất nguồn phù sa và cá... Nhà nước Việt Nam luôn
luôn bị chi phối bởi các nhóm lợi ích, không những đã không có tiếng nói
quyết liệt ngăn chặn mà còn góp vốn đầu tư thực hiện dự án tai hại ấy,
có thể ví như một hành động cầm súng tự bắn vào chân mình/ shoot oneself
in the foot.
Quan
điểm từ MRC: trải qua 24 năm từ ngày thành lập, Ủy Hội Sông Mekong trải
qua nhiều giám đốc điều hành, đã chứng minh MRC là một tổ chức không
hiệu lực, tới mức đi tới nhận định: Hiệp Định Phát Triển Bền Vững Lưu
Vực Sông Mekong 1995 hầu như đã tan vỡ.
Trong
quá khứ và cả đến hiện nay, Ủy Hội Sông Mekong đã khá thụ động trước sự
bộc phát của các dự án đập thủy điện Hạ Lưu. Các nhà hoạt động môi sinh
kêu gọi tinh thần trách nhiệm của tổ chức liên chánh phủ này. “Ủy Hội
cần chứng tỏ là một tổ chức hữu ích cho quần chúng, chứ không phải là
cho các nhà đầu tư”, Surichai Wankaew, giám đốc Viện Nghiên cứu Xã hội
Đại học Chulalongkorn, Thái Lan nói tiếp “Nhiệm vụ Ủy Hội thay đổi, thay
vì ‘tạo thuận/ facilitation’ cho việc xây đập, thì nay phải là ‘diễn
đàn / platform’ cho cư dân bị ảnh hưởng nói lên mối quan tâm của họ”.
Cũng trước đó, đã có hơn 200 tổ chức môi sinh từ 30 quốc gia yêu cầu Ủy
Hội và các nhà tài trợ ngưng ngay các dự án xây đập.
Một
kháng thư gửi Ủy Hội Sông Mekong và các Cơ quan Tài trợ nhân cuộc họp
tại Siem Reap vào ngày 15/11/2007: “Chúng tôi, những nhóm công dân viết
lá thư này để bày tỏ mối quan tâm về sự tái phục hoạt các chương trình
xây đập trong vùng Hạ lưu sông Mekong, cùng với sự bất lực của Ủy Hội
thực hiện Thỏa ước Mekong 1995 trong tình hình nghiêm trọng hiện nay. Lẽ
ra Ủy Hội có thể lên tiếng khuyến cáo ngăn chặn các dự án xây đập của
các quốc gia ven sông nhưng họ thì vẫn cứ im lặng một cách đáng ngạc
nhiên.
Giám
đốc Điều hành Ban Thư ký Uỷ hội Sông Mekong (CEO / MRC Secretariat)
hiện nay là TS Phạm Tuấn Phan, sinh quán Hà Nội, (là anh của Bộ trưởng
Ngoại giao kiêm Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh kiêm Uỷ viên Bộ Chính Trị
Việt Nam) có bằng tiến sĩ vật lý và điện toán từ Đại học Belarus thuộc
Liên Xô cũ, một học vị ít liên quan tới lãnh vực môi sinh, thuỷ học và
các hệ sinh thái sông ngòi. Ông Phan mang hai căn cước: căn cước của một
công dân Việt Nam và căn cước của một công dân Mekong. Tại một Diễn đàn
Khu vực liên quan tới Dự án thuỷ điện Pak Beng, con đập thủy điện dòng
chính thứ ba của Lào họp tại Luang Prabang ngày 22.2.2017, TS Phạm Tuấn
Phan, khi trao đổi với phóng viên Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị đã phát
biểu: "Thuỷ điện không khiến dòng Sông Mekong sẽ chết. Tôi nghĩ chúng ta
nên hiểu rõ điều này trước đã". [Hình 6]
Phát
biểu của ông không những rất thiếu cơ sở khoa học, đi ngược lại quan
điểm của bao nhiêu tổ chức bảo vệ môi sinh quốc tế và ngay trong lưu vực
Sông Mekong từ bao năm nay. TS Phạm Tuấn Phan đã và đang gây tác hại
cho nỗ lực bảo vệ Sông Mekong bấy lâu và cả rất thiếu trách nhiệm với
các cộng đồng cư dân ven sông Mekong, trong đó có ngót 20 triệu cư dân
trên chính vùng đất mẹ của ông, nơi mà “những người nông dân ĐBSCL đang
khốn đốn muốn chết", một số không ít đã bỏ đi tha phương cầu thực là
điều rất dễ thấy.
Trước
nguy cơ: mất nguồn nước ngọt, mất nguồn phù sa, và cả vùng châu thổ phì
nhiêu đang chìm dần trong biển mặn. Hậu duệ của những thế hệ dũng mãnh
tiên phong khai phá trong cuộc Nam Tiến cách đây mới ba trăm năm, thì
nay đang bị bất động, không được quyền cất tiếng nói và đang phải tủi
nhục chấp nhận lùi bước trước thảm hoạ bị xoá đi cả một nền Văn Minh
Miệt Vườn và trong một tương lai không xa, rồi ra trên tầm vóc quốc gia,
sẽ có những đợt tỵ nạn môi sinh/ ecological refugees vào giữa thế kỷ 21
này.
Mới
đây, tạp chí Khoa học Nature 2018 có bài nghiên cứu nhan đề: Potential
Disruption of Flood Dynamics in the Lower Mekong River Basin Due to
Upstream Flow Regulation / Tiềm năng Phá vỡ Động lực Lũ lụt Vùng Hạ lưu
Sông Mekong là do điều tiết Dòng chảy từ Thượng nguồn.
“Lưu
vực Sông Mekong / Mekong River Basin đang trải qua những biến đổi vô
lường do gia tốc xây thêm những hồ chứa thủy điện lớn mới đây. Khi mà
tình trạng thủy học Lưu vực Sông Mekong được hiểu rõ và ảnh hưởng của
một số những con đập hiện nay đã được khảo sát. Chúng tôi dùng mô hình
thủy-động-lực-học / hydrodynamic model simulations, chứng minh được rằng
những hậu quả điều tiết dòng chảy từ thượng nguồn là có thể tiên lượng
được dọc theo dòng chính Sông Mekong, và cơ chế điều tiết dòng chảy con
Sông Tone Sáp và các phân lưu / distributaries nơi ĐBSCL có khả năng bị
gián đoạn. Nghiên cứu cho thấy dòng chảy ngược / reversal của con Sông
Tonle Sap có thể bị mất nếu nhịp đập của lũ / Mekong flood pulse trên
sông Mekong giảm khoảng 50% và trễ đi một tháng.” (2)
Với
Bắc Kinh, con chủ bài đang khống chế toàn lưu vực Sông Mekong và cả các
Công ty xây đập đa phần là từ Trung Quốc, chắc chắn cả hai chánh phủ
Trung Quốc và Lào phải cám ơn phát biểu cổ võ thủy điện / pro-dams của
ông Phạm Tuấn Phan, như một tiếng nói có quyền lực từ Uỷ Hội Sông Mekong
đang gián tiếp bênh vực họ – không khác quan điểm bấy lâu của TT
Hunsen.
Lẽ
ra, ở vị trí lãnh đạo một tổ chức đa quốc gia như MRC, TS Phạm Tuấn
Phan nên ở vị trí trung lập chứ không phải là xếp hàng và chọn phe bênh
vực thủy điện như ông đã làm, chức năng của ông cao hơn thế, lãnh đạo
MRC như một tổ chức điều hợp giúp cho các quốc gia trong toàn lưu vực
từng bước thực hiện được những bước “phát triển bền vững” như tinh thần
cốt lõi của Hiệp Định về Hợp Tác Phát triển Bền vững Lưu vực Sông Mekong
1995.
NĂM NAY 2019 KHÔNG CÒN MÙA NƯỚC NỔI
Nhịp
điệu ngàn năm của con sông Mekong. Hệ sinh thái vùng châu thổ Sông Cửu
Long được cân bằng một cách tự nhiên với "mùa nước nổi" và "mùa nước
giựt". Mùa Nước Nổi thường hiền hoà khác hẳn với lũ lụt tàn phá dữ dội
như ở miền Bắc hoặc miền Trung Việt Nam.
Vào
mùa nước nổi, mực nước hai con Sông Tiền Sông Hậu có đặc tính dâng cao
lên từ từ, tràn qua các bờ sông rạch, làm ngập các cánh đồng. Nước lũ có
nhiều công dụng hữu ích không những chỉ rửa phèn, rửa tạp chất cho đất
mà còn để lắng xuống một lượng phù sa như một thứ phân bón thiên nhiên
tuyệt hảo "trời cho" khiến đất đai thêm phần màu mỡ, biến ĐBSCL thành
vựa lúa, vựa cây trái trù phú của cả nước và Việt Nam đã từng đứng thứ
hai trên thế giới về xuất cảng lúa gạo chỉ đứng sau Thái Lan.
Cùng
với con nước đỏ ngầu mang đẫm phù sa, là các loại cá lội theo con nước
vào ruộng đồng đẻ trứng, cho đến thời kỳ nước thấp thì nước từ trong
đồng ruộng chảy ra, cùng với vô số cá từng đàn, ùa theo nhau tràn vào
các kinh rạch để ra sông lớn. Do chưa bận mùa cấy trồng, người nông dân
đóng đáy bắt cá suốt dọc theo các kinh rạch này, và trong mấy thập niên
trước đây cá nhiều tới mức lưới không chịu nổi phải giở lên thả cá cho
đi bớt; bằng không thì sẽ bị rách lưới. (1)
Đó
là chuyện quá khứ, nay mọi sự đã đổi thay. Từ hai thập niên qua, hiện
tượng cân bằng sinh thái tự nhiên đó hầu như đang dần dần biến mất. Và
"mùa nước nổi" càng ngày càng giảm cả về cường độ lẫn tần suất. Hiện
tượng đó không thể đổ cho thiên tai mà là "nhân tai" một thứ thảm hoạ
môi sinh / ecological disaster do chính con người gây ra – mà thủ phạm
chính là chuỗi đập thủy điện dòng chính khổng lồ Vân Nam của Trung Quốc
trên Sông Lancang-Mekong và sẽ trầm trọng thêm với những con đập của
Lào.
Từ
đầu tháng 6 hàng năm, vào mùa Mưa nước lũ từ thượng nguồn sông Mekong
đổ về, bắt đầu từ các tỉnh đầu nguồn ĐBSCL báo hiệu cho mùa nước nổi cao
điểm vào khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10. Nhưng năm nay 2019, mọi
chuyện không diễn ra theo chu kỳ như thế và có nguy cơ sắp tới sẽ không
còn mùa Nước Nổi. Khi mà vùng Đông Bắc Thái Lan đang phải chịu một trận
hạn hán thế kỷ, ảnh vệ tinh chỉ rõ mực nước Sông Mekong Vùng Tam Giác
Vàng chưa bao giờ xuống thấp đến như thế.
Theo
phóng viên Bình Nguyên, báo điện tử Cần Thơ 04 tháng 8, 2019: “Những
ngày cuối tháng 7, 2019 chúng tôi đi dọc tuyến biên giới An Giang, Đồng
Tháp. Thông thường, những năm trước, đây là lúc nước lũ đã tràn đồng,
trên đó là cảnh đánh bắt cá đồng của người dân. Giờ đây, cũng dọc theo
những cánh đồng đó là ruộng nứt nẻ, những chiếc ghe nằm chỏng trơ trên
bãi bồi…” (5)
Theo
Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc lập lâu năm về sinh thái
ĐBSCL, cho biết: “Một năm trung bình sông Mekong có tổng lượng nước là
475 tỉ m3, trong đó lượng mưa tại chỗ ở ĐBSCL chỉ chiếm 11% số đó. Vì
vậy, mực nước ở ĐBSCL phụ thuộc lớn vào lượng nước từ phía trên chảy về.
Nước ở lưu vực Mekong ít thì nước ở ĐBSCL giảm, kéo theo đỉnh lũ thấp
vào khoảng giữa tháng 10 ở ĐBSCL và xâm nhập mặn sẽ lấn sâu vào khoảng
tháng 3 dương lịch, sau Tết Nguyên đán”
“Kinh
nghiệm cho thấy như năm 2016 là năm khô hạn cực đoan thì ít có biện
pháp nào để đối phó. Dù có công trình cống đập ngăn mặn thì cũng không
có tác dụng ngăn mặn, vì bên trong không đủ nước thì ngăn mặn vô ích…
Năm nay mùa lũ không về thì nguồn thủy sản tự nhiên sẽ giảm, cuộc mưu
sinh của những người dân đánh bắt thủy sản tự nhiên sẽ gặp khó khăn. Sau
một năm khô hạn như thế thì năm sau dù có lũ trở lại cá vẫn sẽ ít vì
chưa kịp phục hồi”- Vẫn ông Thiện nói. (5)
Theo
Tiến Sĩ Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu về biến đổi khí
hậu, Đại học Cần Thơ, mực nước trên sông Mekong qua ĐBSCL thấp so với
cùng kỳ. Đó là chỉ dấu cho thấy mùa lũ sắp tới nếu có cũng sẽ rất thấp
và dẫn tới các hệ quả là phù sa ngày càng ít dần, lượng thủy sản ít,
không có đủ nước ngọt để đẩy mặn ra xa và không rửa được phèn và tạp
chất khác trong đất. Qua đó làm ảnh hưởng đến năng suất lúa và cây
trồng. Về giải pháp là cần khuyến cáo ngay việc giảm tối đa diện tích
sản xuất lúa, trữ nước mưa nhiều nhất có thể… Ngoài ra là chọn những
giống cây trồng ít sử dụng nước để gieo trồng.” (5) [Hết lược dẫn]
Không
có đủ nguồn nước ngọt, trong một tương lai gần, Đồng Bằng Sông Cửu Long
không còn là vựa lúa và cả nước mất đi nguồn lương thực rất quan trọng,
nói chi tới một Việt Nam chỉ mới hai thập niện trước đây thôi, đã từng
là quốc gia xuất cảng lúc gạo lớn thứ hai của thế giới, chỉ đứng sau có
Thái Lan.
MỘT HIỆP ƯỚC 1995 MỘT TINH THẦN SÔNG MEKONG
Người
ta hy vọng với những kinh nghiệm đã có từ Ủy hội Sông Mekong tích lũy
từ nhiều năm, sẽ giúp cho TS Phạm Tuấn Phan – một công dân đầu tiên từ
lưu vực Sông Mekong đảm nhiệm chức Giám đốc MRC, có được sự hiểu biết về
những vấn đề mang tính quyết định đối với tổ chức này, sẽ giúp ông lãnh
đạo một cách hiệu quả vào thời điểm cam go trên một vùng chính trị địa
dư / geopolitics đang có rất nhiều biến động và cả phân hóa như hiện
nay.
Hai thử thách trước
mắt và bước thứ ba lâu dài của TS Phạm Tuấn Phan, cũng là của toàn cơ
chế Ủy Hội Sông Mekong sau quá trình hoạt động hơn 24 năm [1995-2019]
là:
(1)
Thuyết phục các quốc gia thành viên Ủy Hội Sông Mekong tôn trọng tinh
thần "Hiệp Ước Hợp Tác Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông Mekong" 1995:
“Các quốc gia thành viên ký kết đồng ý là “bằng mọi cố gắng phòng tránh,
làm nhẹ hay giảm thiểu những hậu quả tác hại trên môi trường… do phát
triển và sử dụng Lưu vực Sông Mekong.” Theo Điều 6, 7 Mekong 1995.
(2)
Thuyết phục được chánh phủ Lào và cả Cambodia tôn trọng một trật tự
vùng, bằng cách không vội vã thực hiện tất cả các dự án đập dòng chính
trên lãnh thổ Lào và Cambodia để có thêm thời gian nghiên cứu thêm và bổ
xung những khiếm khuyết.
(3)
Thực hiện “Kế hoạch Chiến lược / MRC Strategic Plan”, tăng cường và mở
rộng hợp tác với các quốc gia thượng nguồn Lancang-Mekong trên quy mô
“Toàn Lưu Vực”, chủ yếu bao gồm cả Trung Quốc, quốc gia sở hữu hơn nửa
chiều dài con sông Mekong nhưng đã lại từ chối làm thành viên của Ủy Hội
Sông Mekong mở rộng.
Thực
hiện và vượt qua được các bước thử thách trên sẽ là một thành quả không
phải chỉ của cá nhân ông Phạm Tuấn Phan, mà cũng là “lý do hiện hữu /
raison d’être” của chính ông và tổ chức có danh xưng là Ủy Hội Sông
Mekong.
Nhiệm
vụ của TS Phạm Tuấn Phan cũng sẽ dễ dàng hơn nếu ông có một trái tim và
cả biết lắng nghe lời kêu than thống thiết của những cư dân sống ven
sông và cả rất nhiều tiếng nói của các các nhóm xã hội dân sự khác.
Ngoại
trừ các cộng đồng cư dân Thái Lan, tiếng nói các nhóm xã hội dân sự của
3 quốc gia Mekong còn lại phải nói là rất yếu ớt. Với Việt Nam, tuy
phải gánh chịu tất cả hậu quả suy thoái của con Sông Mekong vì là quốc
gia cuối nguồn; nhưng đến bao giờ thì những người dân Miền Tây quanh năm
cực nhọc, sống dưới mức nghèo khó ấy mới cất lên được tiếng nói và đến
bao giờ thì tiếng nói của họ mới được lắng nghe.
Sinh
kế của ngót 20 triệu dân cư ĐBSCL, an ninh lương thực của cả nước, nền
văn hoá sông nước và tài nguyên môi sinh miền Nam bị huỷ hoại và rơi vào
thảm trạng này là vì sao? Quy trách chuỗi đập nơi các quốc gia thượng
nguồn là đúng. Nhưng làm sao ngăn họ lại khi Việt Nam cũng xây đập trên
các phụ lưu Mekong ở VN? Khi VN nhận phần chia đầu tư vào dự án lớn nhất
dòng chính Luang Prabang của Lào? Khi VN ký nhận làm đối tác mua thuỷ
điện từ chính những dự án Mekong với phản đối chiếu lệ? Khi CEO của MRC
là một người Việt, có ảnh hưởng ở cấp chính phủ và chủ trương ủng hộ
thuỷ điện? Khi VN không khiếu kiện Lào theo luật quốc tế? Xét một chuỗi
sự kiện nói trên, VN đã thất thủ chiến lược, đã bỏ ĐBSCL để đổi lấy
những món lợi rất ngắn hạn nói trên.
Năm
nay 2019, trước cơn Đại hạn của Thế kỷ đang là một hồi chuông cảnh giác
cho toàn lưu vực với ước vọng đã tới lúc phải hàn gắn những đổ vỡ, phục
hồi niềm tin. Một Hiệp ước Vùng thì đã có rồi, nhưng làm sao chính phủ
các nước đặt bút ký vào Hiệp ước 1995 ấy phải biết tôn trọng các điều
khoản, không chỉ để bảo vệ quyền lợi dân tộc mình mà cao hơn thế nữa là
tiến tới triển vọng hợp tác trong “Tinh Thần Sông Mekong” như một mẫu số
chung để cùng nhau phát triển, cùng nhau hướng tới một tương lai thịnh
vượng chung và hòa bình cho toàn vùng.
NGÔ THẾ VINH
California, 25.08.2019
Tham Khảo:
1/
Đọc tác phẩm Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng. Đỗ Hải Minh, Tập
san Thế Kỷ 21, Số 139, 11/ 2000. Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, Ngô Thế
Vinh, Nxb Văn Nghệ 2007.
4/ Prayut: China, Laos, Myanmar asked to release water. Mongkol Bangprapa, Bangkok Post 24.07.2019 https://www.bangkokpost.com/ thailand/general/1718087/ prayut-china-laos-myanmar- asked-to-release-water
* ACMECS: Ayeyawady-Chao Phraya-Mekong
Economic Cooperation Strategy / Chiến lược Hợp tác Kinh tế
Ayeyawady-Chao Phraya-Mekong (tên 3 dòng sông Ayeawady, Chao Phraya,
Mekong) bao gồm 4 quốc gia: thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
bao: Thái Lan, Lào, Cambodia,Việt Nam và Myanmar.
(H.Phi chuyển )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét