Tác giả: Erik Bjørnstad Engblad
Dịch giả: Lê Lam/ Viet-studies
Trường hợp nhiễm COVID-19 đầu tiên được báo cáo tại Vũ Hán (Trung Quốc) vào ngày 31 tháng 12 năm 2019. Trong một khoảng thời gian ngắn, virus đã trở thành đại dịch toàn cầu, một điều chưa từng có trong lịch sử hiện đại.
Tuy nhiên, tốc độ lan truyền chóng mặt có thể là triệu chứng của một hiện tượng mà Thomas Hylland Eriksen, giáo sư tại Khoa Nhân học Xã hội, đã rất quen thuộc: quá nóng.
Hylland Eriksen nói: “Trong dự án nghiên cứu Overheating[1] (quá nóng) của mình, chúng tôi đã khám phá những thay đổi tăng tốc không kiểm soát, không có bộ điều nhiệt để làm mát quá trình. Coronavirus nhắc nhở chúng ta về việc thế giới gắn kết chặt chẽ với nhau như thế nào và chúng ta thực sự kiểm soát nó ra sao“.
Mạng trở nên hữu hình trong thời kỳ khủng hoảng
Nền kinh tế toàn cầu của chúng ta đang ở trong tình trạng nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Sản phẩm được sản xuất ở phía bên kia của thế giới và được vận chuyển đến các cửa hàng của chúng ta bằng máy bay và tàu container. Bò sản xuất sữa có trên bàn ăn của chúng ta và thịt bò trong đĩa của chúng ta được nuôi bằng đậu nành từ Brazil. Mỗi ngày du lịch và công nghiệp liên tục vẽ ra những đường dây mới xuyên qua hành tinh. Những mạng lưới vô hình tràn ngập thế giới chỉ trở nên hữu hình khi khủng hoảng xảy ra.
“Trong cuộc sống hàng ngày, hầu hết chúng ta không nhìn thấy các giàn khoan dầu ở Biển Bắc, hoặc các tàu container vận chuyển hàng hóa trên biển. Chúng ta không thấy sóng điện từ cho phép chúng ta sử dụng điện thoại di động hoặc Internet. Nhưng khi nó không hoạt động, chúng ta nhận thấy điều đó”, Thomas Hylland Eriksen nói.
“Chỉ sau đó chúng ta mới bắt đầu thấy tính dễ bị tổn thương của hệ thống. Nếu chúng ta thực sự muốn diệt virus, chúng ta cần phải dừng tất cả các thông tin liên lạc công cộng, tất cả phương tiện giao thông. Sau đó, chúng ta sẽ thực sự trải nghiệm việc chúng ta phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng toàn cầu như thế nào.” ông nói.
Qua một số trường hợp được điều tra trong dự án Quá nóng, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một cơ chế gọi là hiệu ứng cánh bướm, trong đó các sự kiện nhỏ có thể gây ra những biến động lớn lâu dài. Ý tưởng này dựa trên hình ảnh một con bướm vỗ cánh ở Rio de Janero (Brazil), sau đó tạo ra một số hiệu ứng gợn gây ra một trận bão tuyết ở New York (Mỹ).
Theo Hylland Eriksen, một mô hình tương tự có thể áp dụng với coronavirus.
“Nó bắt đầu như một sự bùng phát cục bộ ở Trung Quốc, và bây giờ các sàn giao dịch chứng khoán đang giảm, các công ty hàng không sắp phá sản và các đường băng, trường học, sự kiện và các động mạch giao thông đang bị đóng cửa.” ông nói.
Chúng ta cần sống chậm hơn
Mặc dù lo lắng về virus và thiệt hại ngày càng tăng mà nó gây ra, Hylland Eriksen tin rằng tình huống này cũng có thể giúp tạo ra những kết quả tích cực. Ông đã bắt đầu một dự án nghiên cứu được Hội đồng nghiên cứu Na Uy tài trợ, liên quan đến việc tìm hiểu hiện tượng COVID-19, với tên gọi “From Vulnerability to Sustainability” (Từ dễ bị tổn thương đến bền vững).
Hylland Eriksen nói: “Tôi hy vọng cuộc khủng hoảng này có thể khiến chúng ta nhận thức rõ hơn rằng chúng ta có thể cải thiện chất lượng cuộc sống bằng cách làm ít hơn và làm nhiều việc chậm hơn”. Ông đã mô tả sự rượt đuổi hạnh phúc của chúng ta trong một xã hội giàu có trong cuốn sách “The Big Bad Wolf Syndrome” (Hội chứng sói xấu lớn), xuất bản năm 2008, rằng: các nghiên cứu cho thấy từ những năm 1950 chất lượng cuộc sống ở Na Uy đã giảm đi, mặc dù sự giàu có, linh động và tiếp cận với hàng hóa và dịch vụ tăng lên.
“Chúng ta cần giữ nhận thức toàn cầu của mình, nhưng hành động nhiều hơn ở cấp địa phương. Chúng ta cần sống chậm hơn, đi lại ít hơn bằng máy bay và ăn ít thịt. Chúng ta cần phải làm bánh mì bột chua và đi dạo trong rừng. Tôi không muốn loại trừ một sự thật rằng những thay đổi như vậy có thể xảy ra như là một tác dụng phụ không chủ ý của đại dịch này. Nếu bây giờ chúng ta buộc phải chậm lại, có lẽ lần sau chúng ta sẽ phát hiện ra rằng thật tốt khi giảm tốc độ,” ông nói.
Dịch bệnh đem đến thay đổi
Đây không phải là lần đầu tiên một dịch bệnh thay đổi tiến trình lịch sử. Giáo sư Hylland Eriksen đề cập đến sự sụp đổ của Đế chế La Mã có thể liên quan đến bệnh dịch hạch như thế nào. Cái chết đen có thể xảy ra như thế nào trong sự kết thúc của chế độ phong kiến và sự khởi đầu của kỷ nguyên hiện đại ở châu Âu. Thực tế là một số lượng lớn dân số người bản địa ở Mỹ đã chết vì người châu Âu đem tới những căn bệnh mà họ đã quen vì họ đã sống với các vật nuôi một thời gian dài, những bệnh dịch cũng được sử dụng làm vũ khí trong các vụ thảm sát.
“Tôi không muốn suy đoán liệu chúng ta có đang chứng kiến điều tương tự như thế hay không. Mọi người đã khóc sói quá nhiều lần trong vài năm qua trong các dịch bệnh nhỏ hơn liên quan đến SARS và cúm lợn. Nhưng lần này có vẻ nghiêm trọng hơn. Có một cái gì đó về sự tăng trưởng theo cấp số nhân trong các trường hợp nhiễm trùng. Một khi bụi đã ổn định sau cuộc khủng hoảng này, chúng ta cần nắm bắt cơ hội để xem xét lại liệu chúng ta có thực sự muốn có một thế giới quá nóng hay không”, Hylland Eriksen nói.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét