Mọi người đều biết LÝ BẠCH là THI TIÊN, là ông tiên trong rượu, như lời thơ của Thi Thánh Đỗ Phủ đã viết về ông như sau :
李白一斗詩百篇, Lý Bạch đẩu tửu thi bách thiên,
長安市上酒家眠。 Trường An thị thượng tửu gia miên.
天子呼來不上船, Thiên tử hô lai bất thượng thuyền,
自稱臣是酒中仙。 Tự xưng thần thị tửu trung tiên.
Có nghĩa :
Lý Bạch rượu vào trăm thơ ra,
Trường An quán rượu ngủ như nhà.
Vua đòi cũng mặc thuyền không xuống,
Xưng "Tiên Trong Rượu" chính là ta !
Nhưng...
Ít ai biết LÝ BẠCH còn được người đời sau xưng tụng là THI
HIỆP 詩俠, là Thi sĩ có lòng hiệp nghĩa trong thơ. Bản thân Lý cũng là một
kiếm khách có lòng hiệp nghĩa, hay cứu khổn phò nguy... Khi đi ngang
qua đất Yên, Triệu là nơi có nhiều hiệp khách ngày xưa, Lý đã cảm khái
mà viết nên bài thơ cổ phong trường thiên HIỆP KHÁCH HÀNH 俠客行, mà sau nầy đã làm nguồn cảm hứng cho đại tiểu thuyết gia võ hiệp Kim Dung 金庸 viết nên tác phẩm võ hiệp nổi tiếng cùng tên HIỆP KHÁCH HÀNH.
Dưới đây là bài thơ nổi tiếng Hiệp Khách Hành của Lý Bạch.
俠客行 HIỆP KHÁCH HÀNH
趙客縵胡纓, Triệu khách mạn Hồ anh.
吳鉤霜雪明。 Ngô câu sương tuyết minh.
銀鞍照白馬, Ngân yên chiếu bạch mã,
颯沓如流星。 Táp đạp như lưu tinh.
十步殺一人, Thập bộ sát nhất nhân,
千里不留行。 Thiên lý bất lưu hành.
事了拂衣去, Sự liễu phất y khứ,
深藏身與名。 Thâm tàng thân dữ danh.
閒過信陵飲, Nhàn quá Tín lăng ẩm,
脫劍膝前橫。 Thoát kiếm tất tiền hoành.
將炙啖朱亥, Tương chích đạm Chu Hợi,
持觴勸侯嬴。 Trì trường khuyến Hầu Doanh.
三杯吐然諾, Tam bôi thổ nhiên nặc,
五嶽倒爲輕。 Ngũ nhạc đão vi khinh.
眼花耳熱後, Nhãn hoa nhĩ nhiệt hậu,
意氣素霓生。 Ý khí tố nghê sinh.
救趙揮金槌, Cứu Triệu huy kim chùy,
邯鄲先震驚。 Hàm Đan tiên chấn kinh.
千秋二壯士, Thiên thu nhị tráng sĩ,
烜赫大梁城。 Huyên hách Đại lương thành.
縱死俠骨香, Túng tử hiệp cốt hương,
不慚世上英。 Bất tàm thế thượng anh.
誰能書閣下, Thùy năng thư các hạ,
白首太玄經。 Bạch thủ Thái Huyền Kinh.
李白 Lý Bạch
Thi Hiệp LÝ BẠCH
* Chú Thích :
- Hiệp Khách Hành 侠客行 : HÀNH 行 là một thể loại văn học xưa, có vần điệu
là một thể thơ trường thiên trong Nhạc phủ, có thể phổ nhạc và hát
được.
- Triệu Khách 趙客 : Chỉ các hiệp khách đất Yên Triệu ngày xưa.
- Mạn Hồ Anh 縵胡纓 : MẠN là không có hoa văn. HỒ là xứ Hố. ANH là Dây cột
mão đội trên đầu cho chắc. Nên MẠN HỒ ANH là chỉ chung loại mão (nón) dùng để chụp cái búi tóc trên đầu của các hiệp sĩ, có hai sợi dây thòng xuống hai bên để buộc vào dưới cằm cho chắc.
- Ngô Câu 吳鉤 : Tên một loại bảo đao xưa.
- Sương Tuyết Minh 霜雪明 : Chỉ vũ khí sắc bén sáng loáng và lạnh lùng như sương tuyết.
- Táp Đạp 颯沓 : Hình dung từ chỉ ngựa phi dồn dập.
- Hai câu "Thập bộ sát nhất nhân, Thiên lý bất lưu hành 十步殺一人,千里不留行 :
Có xuất xứ từ chương Thuyết Kiếm trong sách Trang Tử, chỉ sự sắc bén của
thanh kiếm và sự dũng mãnh của người hiệp khách : Trong vòng mười bước
sẽ giết chếy một người và ngoài ngàn dặm không chừa ai cả.
- Tín Lăng 信陵 :là Tín Lăng Quân, tức Ngụy Vô Kỵ, hợp cùng với Mạnh
Thường Quân, Xuân Thân Quân và Bình Nguyên Quân thành TỨ CÔNG TỬ thời
Chiến Quốc, chiêu hiền đãi sĩ, trong nhà luôn có ba ngàn thực khách,
trong số đó có rất nhiều hiệp khách giang hồ.
- Chu Hợi, Hầu Doanh 朱亥、侯嬴 : đều là những hiệp khách thời Chiến quốc, là môn khách của Tín Lăng Quân.
- Hai câu "Tam bôi thổ nhiên nặc, Ngũ nhạc đão vi khinh 三杯吐然諾,五嶽倒爲輕"
Có nghĩa : Chỉ cần có ba ly rượu vào bụng là sẽ có lời hứa hẹn, và đã
hứa hẹn thì sẽ xem lời hưa còn nặng hơn là núi Ngũ Nhạc nữa.(Nói thêm, Ngũ Nhạc gồm có Đông Nhạc Thái Sơn, Tây Nhạc Hoa Sơn, Nam Nhạc Hành Sơn, Bắc Nhạc Hằng Sơn và Trung Nhạc Tung Sơn 东岳山東的泰山、西岳陝西的华山、中岳河南的嵩山、 北岳山西的恒山、南岳湖南的衡山).
- Tố Nghê 素霓 : TỐ là Màu Trắng, NGHÊ là Mây màu buổi sáng hoặc buổi
chiều; nên TỐ NGHÊ còn gọi là BẠCH HỒNG 白虹 là Cầu vòng màu trắng quanh
mặt trời, chỉ những hiện tượng thiên nhiên đặc biệt khi có những sự kiện
đặc biệt trong đời sống; trong bài thơ chỉ những sự việc khác người,
kinh thiên động địa mà người hiệp sĩ hứa sẽ làm.
- Hai Câu "Cứu Triệu huy kim Chùy, Hàm Đan tiên chấn kinh 救趙揮金槌,邯鄲先震驚"
là nhắc lại tích Tín Lăng Quân cứu Triệu : Quân Tần công phá Hàm Đan là
kinh đô của nước Triệu. Bình Nguyên Quân của Triệu cầu cứu với Tín Lăng
Quân của Ngụy. Tín Lăng Quân theo kế của Hầu Doanh, trộm được binh phù
của Ngụy Vương, Chu Hợi lại dùng chùy giết tướng Ngụy là Tấn Bỉ, rồi tự
cầm quân đi cứu Triệu và đã giải vây được cho thành Hàm Đan.
Chùy giết Tấn Bỉ Cướp Phù Cứu Triệu
- Huyên Hách 烜赫 : HUYÊN là Rực rỡ, HÁCH là Hiển Hách, chỉ sự việc hoặc chiến công rực rỡ hiển hách.
- Đại Lương Thành 大梁城 :Thành Đại Lương là kinh đô của nước Ngụy, thuộc huyên Khai Phong tỉnh Hà Nam hiện nay.
- Thái Huyền Kinh 太玄經 : là quyển kinh sách triết học của nhà tư tưởng
Dương Hùng đời Tây Hán, ông từng giữ chức Hiệu San trong Tàng Thư Thiên
Lộc Các của nhà vua.
* Nghĩa Bài Thơ :
HIỆP KHÁCH HÀNH
Hiệp
khách nước Triệu chỉ đội mão Hồ anh giản dị, nhưng bảo đao bảo kiếm đeo
bên mình lại sáng lắp lánh như sương tuyết. Trên lưng bạch mã với yên
cương bằng bạc băng lướt dặm trường chớp giật như gió cuốn sao sa.Trong
vòng mười bước đã giết chết một mạng người, dù cho ngoài quan ải ngàn
dặm cũng chẳng để thoát bao giờ. Khi việc nghĩa đã làm xong thì dứt áo
ra đi, không màng tất cả mà ẩn tích mai danh. Khi nhàn rỗi thì tạt qua
nhà Tín Lăng Quân uống vài chung rượu, cởi kiếm ra gát ngang trước gối.
Cùng bốc thịt ăn với Chu Hợi và cùng nâng chén rượu nốc cạn với Hầu
Doanh. Chỉ cần có ba chung rượu vào bụng là sẽ có những lời hứa hẹn nặng
hơn cả dãy núi Ngũ Nhạc. Sau khi rượu đã ngà say, mặt đã
đỏ tai đã nóng mắt đã long lên sòng sọc, thì cái hào khí bốc cao có thể
nuốt cả sao Đẩu sao Ngưu, như Hầu Doanh và Chu Hợi đã hưu chùy giết chết
đại tướng của Ngụy cướp binh phù đi cứu Triệu, thanh danh hiễn hách làm
chấn động cả thành Hàm Đan. Tên tuổi của hai tráng sĩ ấy ngàn thu sau
vẫn còn vang vội ở thành Đại Lương. Là một hiệp sĩ dù cho có chết thì
cái khí cốt của hiệp khách vẫn còn lưu lại tiếng thơm đến ngàn sau và
không hỗ danh của một anh hùng hào kiệt. Đã mang cái hào khí của hiệp
khách thì không ai có thể vùi đầu suốt đời trên gác sách, cho đến đầu
bạc như Dương Hùng đời Hán vẫn còn miệt mài mà viết quyển Thái Huyền
Kinh.
Lý Bạch là một Thi Tiên, là một người học rộng biết nhiều, như
"Lý Bạch túy Hách Man Thư" làm khiếp đãm các Phiên Vương. Nhưng khi mười
lăm tuổi ông cũng đã học kiếm thuật, nên cũng tôn trọng tính cách của
những hiệp khách giang hồ, với lòng hiệp nghĩa cứu khổn phò nguy mà
không cần phải nhai văn nhá chữ như những con mọt sách chỉ toàn nói
những lời saó ngữ đẹp đẽ mà không thực tế với cuộc sống trước mắt. Nhà
văn Kim Dung cũng nhằm vào quan điểm thực tế nầy mà viết nên tác phẩm võ
hiệp cùng tên HIỆP KHÁCH HÀNH. Không cần phải được giáo dục theo lối hủ
Nho bằng tứ thư ngũ kinh như Thạch Trung Ngọc mà gian dối xảo biện, làm
những chuyện trái luân thường đạo lý, thà dốt như Cẩu Tạp Chủng Thạch
Phá Thiên mà chân thật trượng nghĩa, dám nghĩ dám làm dám đương đầu với
những thế lực đen tối để cứu khổn phò nguy, chỉ bằng vào hình tuợng của
những con nòng nọc cũng luyên nên được cái thế thần công mà không cần
biết đến nghĩa lý của các chữ khoa đẩu đã nói gì. Đoạn kết của truyện
Hiệp Khách Hành cũng là câu kết của bài thơ của Lý Bạch : Thà ăn thô
uống bạo như những hiệp khách hiệp nghĩa chớ không thèm như nhà tư tưởng
đời Tây Hán là Dương Hùng đến già đầu vẫn còn miệt mài chưa viết xong
được quyển Thái Huyền Kinh !
Gươm sáng choang đao sạch tợ sương.
Ngân yên bạch mã lên đường,
Thế như điện chớp nhanh dường sao sa !
Trong mười bước gian tà đều chết,
Ngàn dặm đường giết hết chẳng tha.
Xong xuôi dứt áo đi xa,
Chẳng màng danh lợi lọ là họ tên !
Khi rảnh rổi cùng lên Tín phủ,
Gát ngang gươm chén rượu khề khà.
Ba chung hơi rượu ngà ngà,
Nhẹ xem Ngũ Nhạc như là cỏ cây !
Cùng Chu Hợi bạn bầy nhai thịt,
Với Hầu Doanh chuốt chén nâng ly.
Cướp phù cứu Triệu hưu chùy,
Hàm Đan giải thoát người thì reo vui !
Ngàn thu vẫn bùi ngùi nhị khách,
Đại Lương thành hiển hách uy danh.
Nắm xương hiệp nghĩa rành rành,
Anh hùng chẳng thẹn, lưu danh muôn đời !
Chẳng như ai vùi đầu gác vắng,
Thái Huyền Kinh bạc trắng mái đầu.
Tàn đời có được gì đâu !!!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét