Kho
báu vua Hàm Nghi không chỉ tồn tại như một huyền thoại. Ít ra, những
dấu tích, cứ liệu còn sót lại cũng chứng minh hùng hồn: Sự tồn tại của,
không chỉ một mà có thể là nhiều kho báu vua Hàm Nghi là điều có thật.
Nó đủ hấp dẫn để đốt lên khát vọng tìm kiếm ở không ít người.
Mặt
trên và mặt dưới của Ấn Quốc gia tín bảo bằng vàng, đúc năm Gia Long,
cao 9,50 cm, cạnh 10,70 x 10,70 cm, dày 1,65 cm - một báu vật triều
Nguyễn.
BÍ ẨN VỀ KHO BÁU CỦA VUA HÀM NGHI
Nguyễn Hồng Lam
Xâu
chuỗi tư liệu lịch sử và cứ liệu thực tế từng xảy ra trong hàng chục
năm qua, chúng tôi cho rằng sự thật không hẳn đáng phải kết thúc bi thảm
và cực đoan như cuộc kiếm tìm của người xấu số.
Trong
hành trình bôn tẩu của Vua Hàm Nghi và phong trào Cần Vương quả thật đã
có một lượng châu báu, tài sản khổng lồ được mang theo.
Nhiều
văn bản lịch sử của triều Nguyễn đã nhắc đến và khẳng định điều đó.
Thỉnh thoảng một vài dấu tích vật chất liên quan đến kho báu lại có dịp
phát lộ ở một số địa phương thuộc 3 tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình và Hà
Tĩnh, những nơi Vua Hàm Nghi và đạo quân Cần Vương từng có thời gian lưu
lại.
Sau
Hòa ước Giáp Tuất 1874, trước sự uy hiếp liên tục và ngày càng gia tăng
của thực dân Pháp, Vua Tự Đức đã chuẩn y cho xây dựng một loạt các căn
cứ Sơn phòng ở hầu khắp các tỉnh miền Trung. Mục đích ban đầu là để
phòng ngừa sự quấy nhiễu của "người Man" (người dân tộc thiểu số) từ Tây Nguyên tràn xuống.
Nói
cách khác, Sơn phòng không gì khác hơn là một loại thành lũy quy mô vừa
phải, có quân đồn trú, làm nhiệm vụ như biên phòng ngày nay ở khu vực
sơn cước phía tây đất nước.
Nhưng
mục đích sâu xa, nhà Nguyễn muốn chuẩn bị trước một loạt căn cứ hậu lộ
nhằm có nơi rút lui và tổ chức kháng chiến lâu dài, nếu Kinh thành Huế
bị Pháp tấn công không thể giữ được.
Trong số đó, sách “Đại Nam thực lục chính biên” cho
biết, theo chỉ dụ của Tự Đức, vùng Cùa, Cam Lộ, Quảng Trị được chọn làm
đất lập Nha Kinh lý Sơn phòng Quảng Trị, tiền thân của thành Tân Sở sau
này. Nhân lực xây dựng lấy từ số phạm nhân đã được phân loại.
Tháng
7/1883, Vua Tự Đức băng hà. Một tháng sau, Pháp đã đưa tàu chiến chiếm
cứ cửa biển Thuận An, từ đó kéo quân xộc thẳng về Kinh đô và đồn trú
ngay trên đất Huế.
Tướng
lĩnh Pháp ngang nhiên ra vào hoàng thành, ngang nhiên nhúng tay can
thiệp vào việc triều chính của đất nước. Quốc gia bên bờ suy vong, triều
đình Huế phân hóa nghiêm trọng.
Trong ba "cố mệnh đại thần" được
di chiếu của Tự Đức giao trọng trách Phụ chánh đại thần thì Tôn Thất
Thuyết và Nguyễn Văn Tường là chủ soái của phe chủ chiến, trong khi Trần
Tiễn Thành cầm đầu phái chủ hòa.
Tôn
Thất Thuyết và phe chủ chiến đã thẳng tay loại trừ bất kỳ ai, kể cả
vua, nếu dám chống lại hoặc cản trở chủ trương chống Pháp. Trong vòng
một năm, 3 tân vương Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc đã lần lượt bị truất
ngôi và bị giết chết theo lệnh của Tường, Thuyết.
Việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến càng trở nên gấp rút. "Quốc triều chính biên toát yếu" chép,
cuối năm 1883, dưới triều Vua Kiến Phúc, Cơ mật Viện nhà Nguyễn đã cho
"dời Nha Sơn phòng Quảng Trị tới làng Bảng Sơn (nay là xã Cam Nghĩa), lỵ sở phủ Cam Lộ cũng dời về trong Sơn phòng".
Tổng
chỉ huy xây dựng Sơn phòng Tân Sở được chính cố mệnh đại thần Nguyễn
Văn Tường đảm trách, có sự phụ tá đôn đốc của một loạt trọng thần như
Phò mã Đặng Huy Cát, Tham biện Tôn Thất Lệ, Phó sứ Sơn phòng Nguyễn
Tuy...
Cả hai cuốn "Đại Nam thực lục chính biên" và "Quốc triều chính biên toát yếu" đều
có những ghi nhận thống nhất: Đầu năm 1885, về cơ bản, các công trình
phòng ngự quân sự đã xem như hoàn tất. Thành Tân Sở dài 548m, rộng 418m,
tổng diện tích khoảng 23 hécta bao quanh bởi một vòng hào khá sâu, rộng
10m.
Triều
đình cho dựng thành, trồng tre, đào hào làm chiến lũy, đồng thời cho
chở lương thực từ các tỉnh Hà - Nam - Ninh của đồng bằng Bắc Bộ theo
đường biển vào Cửa Việt rồi đưa lên Tân Sở
Mặt trên và mặt dưới của ấn Hoàng đế chi tỷ, chạm bằng bạch ngọc, đời Minh Mạng.
Từ
kinh đô, rất nhiều vàng bạc, khí giới cũng được đốc thúc đưa ra chôn
giấu tại đây. Riêng vũ khí, số lượng chuyển đi rất lớn, mất ròng rã 3
tháng mới hoàn tất.
Theo
dự định của Tôn Thất Thuyết, 1 triệu lượng (khoảng 33 tấn) vàng ròng,
bạc nén sẽ được chuyển từ kho Phủ Nội vụ trong Kinh thành Huế lên Tân
Sở. Nhưng mới chuyển được 1/3, khoảng 11 tấn thì giao tranh với Pháp đã
nổ ra tại kinh thành nên phải tạm ngừng.
Đêm
mùng 5, rạng sáng ngày 6/7/1885, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường
đem quân tấn công trại lính Pháp ở đồn Mang Cá. Sau một ngày giao tranh,
quân nhà Nguyễn thất bại.
Ngày
9/7, Tôn Thất Thuyết đã hộ giá (thực chất là bắt ép) Vua Hàm Nghi - mới
lên ngôi chưa đầy 1 năm - rời Hoàng thành vượt lên Tân Sở. Pháp một mặt
cho quân bộ đuổi theo, một mặt cho thủy quân kéo tàu ra biển Nhật Lệ
(Quảng Bình) chặn đường.
Tôn
Thất thuyết tự lượng thành Tân Sở không đủ sức chống đỡ nên vội phò giá
Hàm Nghi vượt lên phía thượng ngàn Đắkrông - Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị,
từ đó vượt sang Châu mường Mahasay của Lào.
Khi
Phan Đình Phùng hưởng ứng chiếu Cần Vương khởi nghĩa, lập xong căn cứ
Vụ Quang, Vua Hàm Nghi lại vượt biên giới về đóng tại căn cứ núi Ấu
(Hương Khê, Hà Tĩnh).
Thực
dân Pháp đã xua đám tay sai do Tổng đốc Hoàng Cao Khải chỉ huy đuổi
riết. Đoàn tùy tùng lại tiếp tục hộ giá Vua Hàm Nghi vượt đèo Quy Hợp
vào đất Tuyên Hóa, Quảng Bình. Có thời gian, đoàn ngự giá hạ trại tại
chân núi Mã Cú, nay thuộc địa phận xã Hóa Sơn, Minh Hóa, Quảng Bình -
chính là nơi sau này Nguyễn Hồng Công đào tìm kho báu.
Rời kinh thành, ngoài châu báu tùy thân, Vua Hàm Nghi còn mang theo kim ấn "Ngự tiền chi bảo" - bảo vật truyền ngôi của nhà Nguyễn. Trước lúc rời Tân Sở, ngày 13/7/1885, Vua Hàm Nghi đã tự tay đóng ấn "Ngự tiền chi bảo" lên những tờ Hịch Cần Vương, kêu gọi sĩ phu và dân chúng mọi miền đứng lên chống Pháp.
Thời
gian Vua Hàm Nghi và đoàn tùy tùng lưu lại Tân Sở rất ngắn, chỉ chừng 4
hoặc 5 ngày. Ngay sau đó, Pháp đã chiếm Sơn phòng Tân Sở và san phẳng
nơi này.
Với
thời gian gấp gáp như vậy, lại liên tục trong tình trạng bị truy đuổi
ráo riết một thời gian dài, gần như chắc chắn Vua Hàm Nghi và đoàn hộ
giá không thể mang theo hết số bạc vàng châu báu, tiền bạc đã tập kết về
Tân Sở từ đầu năm 1885.
Ngoài
một phần bị quân Pháp cướp lại, số mang theo được chắc chắn sẽ phải
chia nhỏ, chôn giấu lại từng phần ở nhiều nơi dọc đường bôn tẩu.
Ngày
26/9/1888, tại khe Tá Bào, Tuyên Hóa, Quảng Bình, tên phản bội Trương
Quang Ngọc đã dẫn binh giết sạch đoàn hộ giá, bắt Vua Hàm Nghi dâng cho
giặc.
Trương
Quang Ngọc, rồi thực dân Pháp đã lục xét đào xới khắp bốn chung quanh
nơi vua hạ trại hòng tìm cướp báu vật mang theo, nhưng chỉ uổng công.
Không
ngọc tỉ, kim ấn, không bạc nén, vàng thoi, trong người đức vua chỉ còn
lại một ít bạc lẻ và vài ba tấm bản đồ đánh dấu một số kho báu được chôn
lại ở nhiều nơi.
Kẻ
ngoài cuộc có cầm bản đồ trên tay cũng không tài nào xác định nổi vị
trí của những tấm bản đồ vẽ sơ sài ấy... Trong khi đó, Vua Hàm Nghi thì
trước sau không chịu nói thêm lấy nửa câu.
Phải
chăng tấm bản đồ mà ông Nguyễn Hồng Công từng tuyên bố sở hữu là một
trong số những bản đồ kho báu đã thất lạc từ gần trăm năm trước? Câu trả
lời vẫn là một bí ẩn lịch sử.
…và những lát cắt thời gian
Đầu
những năm 1980, đồng bào dân tộc Vân Kiều ở gần cầu Đắkrông, Quảng Trị
(cạnh Nghĩa trang Trường Sơn hiện nay), trong khi đi bắt cá khe đã tình
cờ phát hiện trong một hốc cây lớn chìm dưới suối cả một kho tàng gồm
toàn tiền cổ bằng vàng ròng và những thoi vàng nặng 1 lượng.
Một
đoàn khảo sát của Bảo tàng Trung ương cũng tình cờ phát hiện được tại
bản Sê Bu, xã Hướng Phùng, Hướng Hóa, Quảng Trị một chiếc áo dài màu
đen, lót lụa đỏ, thêu kim tuyến và hình rồng 5 móng được cho là áo bào
của Vua Hàm Nghi. Thời nhà Nguyễn, chỉ có vua mới được thêu rồng 5 móng.
Một
số tài liệu trước đó từng ghi nhận, trước khi chia tay để thoát sang
Châu mường Mahasay (tỉnh Khăm Muộn, Lào), Vua Hàm Nghi đã cởi áo bào
tặng cho một người Vân Kiều tên là Ku Xin, vì đã có công giúp đỡ đoàn hộ
giá.
Tại
thôn 5, xã Hải Phúc (huyện Đắkrông), Bảo tàng tỉnh Quảng Trị cũng phát
hiện được trong một gia đình Vân Kiều có chiếc mâm đồng cổ rất lớn chạm 2
con rồng 5 móng và 5 chữ Hán: Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh.
Ở
Quảng Bình, ông Thái Xuân Bạ, nguyên Phó chánh án Tòa án nhân dân huyện
Minh Hóa cho biết, khoảng những năm 50, bố ông tham gia dân quân xã,
từng được huy động đi thu gom "vàng Vua Hàm Nghi" do dân xã Trung Hóa phát hiện.
Tổng
cộng có 3 nong phơi lúa tiền chữ "Đại" bằng vàng ròng, mỗi đồng nặng 12
chỉ được gom về sân nhà ông Bạ trước khi đem giao nộp cho chính quyền.
Ông Bạ và một số trẻ con hàng xóm đã "nhón" đi mỗi người khoảng 10 đồng
để dành... đánh đáo.
Tại
thôn Đặng Hóa, Hóa Sơn, huyện Minh Hóa, năm 1956, sau trận lụt lớn,
người dân trong xã đã phát hiện và vớt được vô số tiền vàng từ một hốc
đá trôi ra suối, thu được hàng tạ, đem nộp lại toàn bộ cho Nhà nước.
Gần
hơn, giữa tháng 4/2003, một đám trẻ chăn trâu đã tình cờ phát hiện được
tại hang Lèn, xã Văn Hóa, huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình một chiếc tráp
gỗ, bên ngoài khắc chữ Hán và hoa văn nhũ vàng rất đẹp. Đưa xuống núi,
chiếc tráp đã tự động mục rã ra.
Bên
trong tráp có một quả cau bằng kim loại màu đen, hai lư hương bằng đồng
và 2 chìa khóa kiểu cổ. Một thanh niên trong làng đã lừa đám trẻ lấy
mất quả cau màu đen (nghi chế tác bằng đồng đen). Hai lư hương và hai
chiếc chìa khóa, Sở Văn hóa Thông tin đã kịp thời thu giữ để giám định.
Gần
1 năm sau, ngày 30/12/2003, trong khi đào đất trên ruộng, người dân Văn
Hóa đã bất ngờ đào được hàng chục chum vại đựng đầy tiền cổ triều
Nguyễn được chôn cách mặt đất chỉ chừng 0,6m. Suốt buổi chiều và đêm hôm
đó, toàn bộ số tiền cổ này đã được thương lái đến mua và đem đi mất,
trước khi chính quyền địa phương phát hiện và ngăn chặn.
Thông
tin chi tiết về vụ việc, chúng tôi đã có dịp đề cập đầy đủ trong bài
báo "Quảng Bình: Hàng tấn tiền cổ được phát hiện và… biến mất" (tác giả
Hồng Lam - Tâm Phùng) đăng trên Chuyên đề ANTG phát hành ngày 3/1/2004.
Đầu
năm 2009, UBND huyện Tuyên Hóa, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Quảng
Bình cũng đã tiếp nhận 3 đồng tiền vàng của bà Nguyễn Thị Liên, trú tại
thôn Tân Sơn, xã Sơn Hóa, Tuyên Hóa. Con dâu bà Liên đã phát hiện 3 đồng
tiền cổ này tại khe nước Trọt Su trong xã.
Những
đồng tiền này đều đúc bằng vàng 999,9%, mỗi đồng nặng 5 chỉ vàng. Có 2
đồng đường kính 2,8cm, đồng còn lại đường kính 2,4 cm. Khác kích thước
nhưng giống nhau về cách trang trí, một mặt có họa tiết mặt trời, mặt
kia có 4 chữ "Hàm Nghi thông bảo". Rất có thể, đây là những đồng tiền
được đúc dập sau khi Vua Hàm Nghi đã trên đường bôn tẩu.
Một
chứng cứ xác đáng được nhiều người biết nữa xuất hiện vào giáp tết
Nguyên đán năm 2007. Nhà báo Văn Cầm Hải và nhóm làm phim thời sự của
VTV1 khu vực Thừa Thiên - Huế đã phát hiện và quay được tại xã Phú Gia,
huyện Hương Khê, Hà Tĩnh, một loạt những di vật của Vua Hàm Nghi.
Kho
báu gồm một cặp kiếm, 6 hoàng bào, một cặp voi vàng, cau, trâu vàng...
vẫn được gìn giữ nguyên vẹn trong một miếu thờ có 3 chìa khóa, do 3
người cất giữ. Miếu cất giữ những báu vật này nằm cách căn cứ Sơn phòng
xưa chỉ chưa đầy 2km.
Rõ
ràng, kho báu Vua Hàm Nghi là một hiện thực lịch sử, không chỉ là huyền
thoại. Những phần kho báu đó chôn giấu những đâu, chôn giấu như thế nào
là một bí ẩn lớn của lịch sử, chưa ai tìm ra lời đáp. Nhưng chắc chắn
nó không phải là câu chuyện hoang đường
Theo Nguyễn Hồng Lam
(H.Phi chuyển )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét