Thế sự du du
nại lão
hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm
ca.
Thời lai đồ điếu
thành công dị,
Vận khứ anh
hùng ẩm hận đa.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn
thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên
bạch,
Kỷ độ Long
tuyền đới nguyệt ma.
ĐẶNG
DUNG
DỊCH
NÔM:
Việc đời bối rối tuổi già
vay,
Trời đất vô
cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên
cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng
cay.
Vai khiêng trái đất mong
phò chúa,
Giáp gột sông trời khó
vạch mây.
Thù trả chưa xong
đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao
rày.
PHAN
KẾ BÍNH
HỌA:
CẢM HOÀI
Bức xúc việc đời cảnh trả vay,
Đất trời nghĩ
tỉnh lại rồi say.
Gặp thời bần tiện thành
công dễ,
Lỡ vận anh
hùng tận mới cay!
Quả đất muốn thân
khiêng giúp chúa,
Sông trời gộp sức khó
xua mây.
Bạc đầu hận nước thù chưa trả,
Dưới nguyệt mài
gươm khổ thế rày.
HỒ NGUYỄN (22-6-19)
|
|
PHÒNG GIẶC BẮC SANG
Hận kẻ thù
chung giặc Hán gian,
Xăm lăng chiếm đất máu
tuôn tràn.
Ngàn năm khổ vẫn chưa
phai vết,
Vạn thuở
không nguôi hận ngút ngàn.
Lãnh địa suối
ngăn bờ biển xới,
Đặc khu
phố thị chiếm tràn lan.
Quê hương nước Việt lưu vinh sử,
Chẳng để Tàu xăm
lược lấn sang.
HỒ NGUYỄN (22-6-19)
* Đặng Dung ( Tóm Lược Từ Wikipedia )
Đặng Dung là người xã Tả Hạ, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An[ (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là con trai cả của Quốc công Đặng Tất.
Theo Đặng tộc Đại Tông phả, ông tổ 4 đời của Đặng Tất là Đặng Bá Kiển vốn cư ngụ ở vùng kinh kỳ Thăng Long, sau đó di dời vào Nghệ An châu. Đặng Bá Kiển sinh ra Đặng Bá Tĩnh đỗ Thám hoa đời nhà Trần. Đặng Bá Tĩnh sinh ra Đặng Đình Dực, Đặng Đình Dực sinh ra Đặng Tất, Đặng Tất sinh ra Đặng Dung].
Cha của Đặng Dung là Đặng Tất, làm quan cho nhà Trần và nhà Hồ; vào năm 1391, Hồ Quý Ly bổ dụng Đặng Tất làm Châu phán Hóa Châu. Năm 1402, Đặng Tất giúp việc cho Hoàng Hối Khanh cai trị vùng đất Thăng Hoa mới lấy được từ Chiêm Thành.
Tháng 5, năm 1407, cha con họ Hồ bị bắt ở cửa biển Kỳ La, Chiêm Thành nhân đó dấy quân hòng chiếm lại đất Thăng Hoa. Đặng Tất xin với Trương Phụ cho mình cai trị đất Hóa Châu, Trương Phụ chấp thuận, sau đó quân Chiêm Thành rút về.
Năm 1407, vào tháng 10, người con thứ của vua Trần Nghệ Tông, tên là Trần Ngỗi, tự lập làm vua lên ngôi ở Tràng An, xưng là Giản Định đế. Do quân mới lập, nhà vua phải chạy vào Nghệ An, Đặng Tất lúc ấy làm Đại tri châu Hóa Châu nghe tin, liền giết viên quan nhà Minh đem quân từ Hóa châu ra Nghệ An phò giúp. Đặng Tất dâng con gái cho vua Giản Định đế, sau đó được phong làm Quốc công.
Năm 1409, sau trận đại chiến Bô Cô (xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vì nghe lời của hoạn quan Nguyễn Quỹ và học sinh Nguyễn Mộng Trang nói rằng Đặng Tất chuyên quyền, vua Giản Định Đế đem lòng ngờ vực đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung tức giận bỏ Trần Ngỗi (Giản Định Đế), cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) đem binh Thuận Hóa về Thanh Hóa, rước Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lập làm vua, tức Trùng Quang Đế.
Tháng 12, năm 1413, từ khi thua trận Sái Già, quân Hậu Trần thế yếu không thể chống với quân Minh được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi; Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung muốn chạy sang Tiêm La, Trương Phụ đuổi theo bắt được. Nguyễn Cảnh Dị mắng chửi Phụ rằng: Chính ta muốn giết mày, bây giờ lại bị mày bắt! Mắng chửi mãi không ngớt mồm, Phụ đem giết đi, lấy gan ăn. Trùng Quang đế chạy sang Lão Qua, Nguyễn Súy chạy sang Minh Linh cũng đều bị quân nhà Minh bắt.
Chẳng được bao lâu vua Trần và các tướng đều bị bắt và bị giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Trùng Quang Đế nhảy xuống biển tự tử, Đặng Dung cũng tự sát. Đặng Dung có làm bài thơ CẢM HOÀI (Còn Có Tên Là THUẬT HOÀI ) , sau được nhiều người truyền tụng:
Đặng Dung là người xã Tả Hạ, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An[ (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là con trai cả của Quốc công Đặng Tất.
Theo Đặng tộc Đại Tông phả, ông tổ 4 đời của Đặng Tất là Đặng Bá Kiển vốn cư ngụ ở vùng kinh kỳ Thăng Long, sau đó di dời vào Nghệ An châu. Đặng Bá Kiển sinh ra Đặng Bá Tĩnh đỗ Thám hoa đời nhà Trần. Đặng Bá Tĩnh sinh ra Đặng Đình Dực, Đặng Đình Dực sinh ra Đặng Tất, Đặng Tất sinh ra Đặng Dung].
Cha của Đặng Dung là Đặng Tất, làm quan cho nhà Trần và nhà Hồ; vào năm 1391, Hồ Quý Ly bổ dụng Đặng Tất làm Châu phán Hóa Châu. Năm 1402, Đặng Tất giúp việc cho Hoàng Hối Khanh cai trị vùng đất Thăng Hoa mới lấy được từ Chiêm Thành.
Tháng 5, năm 1407, cha con họ Hồ bị bắt ở cửa biển Kỳ La, Chiêm Thành nhân đó dấy quân hòng chiếm lại đất Thăng Hoa. Đặng Tất xin với Trương Phụ cho mình cai trị đất Hóa Châu, Trương Phụ chấp thuận, sau đó quân Chiêm Thành rút về.
Năm 1407, vào tháng 10, người con thứ của vua Trần Nghệ Tông, tên là Trần Ngỗi, tự lập làm vua lên ngôi ở Tràng An, xưng là Giản Định đế. Do quân mới lập, nhà vua phải chạy vào Nghệ An, Đặng Tất lúc ấy làm Đại tri châu Hóa Châu nghe tin, liền giết viên quan nhà Minh đem quân từ Hóa châu ra Nghệ An phò giúp. Đặng Tất dâng con gái cho vua Giản Định đế, sau đó được phong làm Quốc công.
Năm 1409, sau trận đại chiến Bô Cô (xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vì nghe lời của hoạn quan Nguyễn Quỹ và học sinh Nguyễn Mộng Trang nói rằng Đặng Tất chuyên quyền, vua Giản Định Đế đem lòng ngờ vực đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung tức giận bỏ Trần Ngỗi (Giản Định Đế), cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) đem binh Thuận Hóa về Thanh Hóa, rước Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lập làm vua, tức Trùng Quang Đế.
Tháng 12, năm 1413, từ khi thua trận Sái Già, quân Hậu Trần thế yếu không thể chống với quân Minh được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi; Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung muốn chạy sang Tiêm La, Trương Phụ đuổi theo bắt được. Nguyễn Cảnh Dị mắng chửi Phụ rằng: Chính ta muốn giết mày, bây giờ lại bị mày bắt! Mắng chửi mãi không ngớt mồm, Phụ đem giết đi, lấy gan ăn. Trùng Quang đế chạy sang Lão Qua, Nguyễn Súy chạy sang Minh Linh cũng đều bị quân nhà Minh bắt.
Chẳng được bao lâu vua Trần và các tướng đều bị bắt và bị giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Trùng Quang Đế nhảy xuống biển tự tử, Đặng Dung cũng tự sát. Đặng Dung có làm bài thơ CẢM HOÀI (Còn Có Tên Là THUẬT HOÀI ) , sau được nhiều người truyền tụng:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét