14 thg 6, 2019

Bốn Bản Dịch Thơ Thôi Hiệu: Hoàng Hạc lâu

 

Hoàng Hạc lâu


Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Dịch nghĩa

Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc.
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại,
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không.
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một,
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi.
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn!

Bản dịch của Tản Đà 


Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? 
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ 
Hạc vàng đi mất từ xưa 
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay 
Hán Dương sông tạnh cây bày 
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non 
Quê hương khuất bóng hoàng hôn 
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?

Bản dịch của Vũ Hoàng Chương 


Xưa Hạc vàng bay vút bóng người 
Đây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi 
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi 
Trắng một màu mây vạn vạn đời 
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu 
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi 
Gần xa chiều xuống đâu quê quán 
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!

Bản dịch của Thanh Tâm Tuyền


Người xưa rong chim hạc đi khuất
Đất cũ để trơ lầu vắng không
Hoàng hạc thuở biệt rõi tuyệt dạng
Mây nghìn kiếp trắng mải bông lông
Tạnh quang cây bến lung linh nắng
Xanh ngát cỏ đồng thiêm thiếp hoang
Xế muộn làng quê nơi nào nhỉ?
Mặt sông khói quyện buồn lạ lùng.

Bản Dịch của Trần Mộng Tú


Người xưa cưỡi hạc vào cõi không
Lầu cũ vắng tanh sầu mênh mông
Chim hạc mù xa cánh mất dấu
Mây trắng bay theo vào vô cùng
Hán Dương cây đứng trơ trơ nắng
Anh Vũ cỏ non bãi bãi xanh
Chiều xuống không nhìn ra quê cũ
Khói phủ mặt sông buồn ngập lòng.
(ảnh chup Hoàng Hạc Lâu năm 1920 Wikipedia ) 
H.Phi chuyển

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét