Khi lũ chim trời đã đến mùa làm tổ trên những tán cây gai quýt, khi cơn mưa mùa đông rơi lạnh lẽo, là lúc tôi cùng mẹ ở ngoài vườn, mảnh vườn được nới rộng dưới chân núi Tình Giang. Cha tôi vắng nhà đã lâu chưa về, vắng cha thì mẹ làm lụng vất vả hơn. Cha tôi đi làm công nhân đường sắt từ năm cha vừa tròn mười chín tuổi, lúc hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định còn chưa chia tách, được gọi chung là tỉnh Nghĩa Bình.
Khi mới khai khẩn, thì vùng đất này chỉ có một
vài ngôi nhà, nằm hút heo dưới chân núi. Những bụi tre bụi trảy luôn là
chỗ cho loài chim bìm bịp lót ổ. Chúng có thói quen là chui vào đám lá
môn chấm đỏ, rình bắt lũ rắn lục; có ba loại rắn lục, là lục nong, lục
nia và lục xanh.
Loài rắn vốn có thứ linh giác lạ thường; nếu giết
con đực thì con cái sẽ báo thù, cho dù đó là loại kẻ thù nào; tình yêu
muôn loài là thế.
Mà vùng đất hoang dã này; từ thuở người trong
làng đến khai hoang, thì đêm phải chốt kín cửa. Ông Ba Chức là người đầu
tiên đặt nhát cuốc khai hoang. Ông Ba Chức trong sự miêu tả của ông Nội
tôi, là người có vóc dáng lực sĩ. Chuyện ông vật con cọp trên núi Tình
Giang, là chuyện mà người làng tôi vẫn còn kể cho đến hôm nay.
Cũng có câu chuyện kể, khi bà Ba Chức làm cái
chuồng gà, đêm đến nhốt lũ gà choai vào chuồng. Đêm hôm đó, trời trăng
sáng quắc, con cọp mò đến phá chuồng, lúc đó ông Ba Chức và con trai ông
vắng nhà, chỉ có mỗi bà ở nhà cùng cô con dâu và đứa cháu nhỏ mới hơn
một tuần tuổi. Con cọp ăn xong mấy con gà rồi lượn vòng quanh, cào cửa,
sau đó nó bỏ đi. Người trong làng kể lại rằng, do cô con dâu đang trong
thời gian ở cữ, và cái mùi ở cữ của đàn bà khiến con cọp phải bỏ đi. Đó
chỉ là một cách giải thích, nhưng có thể cũng đúng, vì đã có một số
trường hợp như thế đã xảy ra trong làng.
Cái hang cọp giờ vẫn còn trên đỉnh núi, nằm ở
hướng mặt trời mọc. Đứng trên đỉnh nhìn về phía những cây gòn, sẽ thấy
cảnh đầm phá, đồng lúa, và những con đường chạy dài giữa những cánh
đồng. Nhìn lệch phía tây nam, sẽ thấy ngọn tháp Bánh Ít nằm trên ngọn
đồi cây lá thấp. Lúc tôi cùng mẹ ở ngoài vườn, tôi lặt trái đậu Hà Lan
khô, mẹ dùng gàu bình qua tới đám cà dĩa, cà pháo, thì lũ chuồn chuồn
bay lượn hàng đàn, chúng bay lượn trên những giọt nước.
Ngôn ngữ từ thuở mở đất đã ăn vào tiềm thức của
người già. Ngôn ngữ cỏ cây, động vật, thời tiết, ngôn ngữ từ những nhà
sư đến xây chùa giảng kinh, ngôn ngữ từ ông bà, tổ tiên truyền qua những
lời răn dạy. Có lần ông ngoại tôi giảng cho tôi nghe về Tam Tự Kinh có
câu “Nhân chi sơ Tính bản thiện. Tính bản thiện. Tính tương cận.
Tập tương viễn”.
Nghĩa của câu là: “Người ta lúc đầu vốn có cái
tính tốt lành. Tính ấy gần giống nhau nhưng do thói tục mà khác nhau.
Nếu không dạy thì cái tính ấy thay đổi. Cách giáo dục là lấy chuyên làm
trọng”.
Đó là những ngày đầu, khi ông ngoại tôi đọc cho
tôi nghe và giảng giải cho tôi hiểu về cái tánh của con người lúc mới
sinh ra. Tôi nghe thì nghe vậy, chứ có hiểu sâu xa gì đâu. Cho đến lúc
lớn hơn một chút, khi giành nhau viên bi với một bạn học, chúng tôi đã
cãi vã và định đánh vào mặt nhau cho bõ tức, nhưng chuyện đã dừng lại
khi tiếng trống trường báo hiệu giờ vào lớp. Sau trận ấy, tôi và bạn tôi
bị cô giáo phạt quỳ cuối lớp. Trước đó hai đứa thân nhau là thế, mà chỉ
vì một viên bi, chúng tôi lại trở thành hai kẻ dữ dằn. Ngẫm ngợi về
điều đó thôi, thì đã là một bài học về sự làm người rồi.
Ông ngoại tôi là cư sĩ tu tại gia. Ông nói nếu ai
cũng xuất gia thì lấy đâu ra dòng giống để phát triển đất nước, gặt hái
lương thực và ca tụng tình yêu. Bà ngoại tôi thì ăn chay trường, dáng
bà khắc khổ như người tu khổ hạnh. Bà quy y ở Tịnh xá Ngọc Long- Diêu
Trì, thuộc hệ phái Khất Sĩ, do tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập ở miền Tây
nước Việt truyền về miền Trung, đất Bình Định.
Đó là những ngày đầu mở đất, mở ngôn ngữ, vùng
đất trầm tích còn nhiều thứ chưa được viết ra để giữ lại cái hồn cốt của
lũ chim trời cá nước, của những câu chuyện dần dà bị mai một.
Vào buổi sáng tháng bảy gió mưa, kèm theo những
tấm áo lá cây phủ trên nền đất, chú tôi đi xẻ gỗ cây gòn để đóng quan
tài, do một người trong làng đặt làm. Cây gòn to, tán cây phủ trùm trên
khu đất phía tây, nơi có ngôi miễu quanh năm đóng cổng, chỉ khi Thanh
Minh thì người trong làng mới quét dọn, chưng hoa quả, thắp hương. Xung
quanh miễu là những đầm trâu, có tên đầm trâu là bởi lũ trẻ thường lùa
trâu đến nằm nước vào những trưa nắng gắt.
Nơi đó có một cái giếng, nước trong veo có thể
nhìn thấy cát dưới đáy. Chú tôi là thợ mộc, chú dùng rơm khô chất vào
gốc gòn, phủ thêm một lớp trấu khô rồi đốt. Ban đêm yên tâm cho lửa
ngún, sáng hôm sau chú sẽ dùng cưa, cưa phần gốc chưa cháy hết.
Đêm hôm đó về nhà chú tôi bị sốt, mửa ra máu, nằm
hôn mê và nói sảng. Chú nói: “Không được đốt gốc gòn, không được đốt
gốc gòn…”. Rồi thì chim cú bay đến đậu trên ngọn dừa ngoài vườn, kêu
suốt đêm, không cách nào ông Nội tôi xua đi được.
Thiếm tôi biết chuyện chú làm vội chạy ra đồng phía tây, thím dập tắt lửa rồi khấn vái hồi lâu, khi thím trở về thì chú tôi mới bắt đầu tỉnh lại.
Thiếm tôi biết chuyện chú làm vội chạy ra đồng phía tây, thím dập tắt lửa rồi khấn vái hồi lâu, khi thím trở về thì chú tôi mới bắt đầu tỉnh lại.
Ông Nội tôi nói với chú tôi:
- Sao con làm liều quá, chưa xin phép trưởng làng, chưa cúng vái gì mà đã động tay động chân đi hạ cây gòn. Cây gòn là chỗ nghỉ chân của dân làng lúc trời nắng non, là nơi tụ họp của dân mỗi khi Thanh Minh, sao con lại làm cái việc dại dột đó. Cây cũng có linh hồn, cây gòn đã sống nhiều năm khi cha còn là hạt bụi trong cõi trời đất hoang vu này.
- Sao con làm liều quá, chưa xin phép trưởng làng, chưa cúng vái gì mà đã động tay động chân đi hạ cây gòn. Cây gòn là chỗ nghỉ chân của dân làng lúc trời nắng non, là nơi tụ họp của dân mỗi khi Thanh Minh, sao con lại làm cái việc dại dột đó. Cây cũng có linh hồn, cây gòn đã sống nhiều năm khi cha còn là hạt bụi trong cõi trời đất hoang vu này.
Cũng từ hôm đó, chú tôi bị trầm cảm nặng, rồi chú mất trong một lần lội đầm lùa trâu về chuồng.
Cái giếng được người trong làng đến lấy nước, vẫn
còn nghe sột soạt mỗi khi thả gàu xuống múc. Có khi múc lên trong gàu
có lẫn mẻ vỏ ốc vỏ sò biển. Lại có khi có người ta đổ nước ra rửa mặt,
lại thấy vị mằn mặn. Rồi những đêm trăng sáng, có người đi tháo nước
ruộng nghe thấy tiếng la ó của binh lính phát ra từ cái giếng nước.
Sau nhiều lần đi bắt lũ chim cu, tôi nghe một ông
lão chăn trâu kể lại rằng: Chỗ cây gòn, vùng đất nằm phía cánh tả, nếu
nhìn từ tháp Bánh Ít hướng ra sông Xanh, thì nơi này từ thế kỉ thứ XVII
khi chưa có người ở, các loài cọp trăn, rắn rết còn đi lại tự do, là một
vùng biển nông. Mãi về sau khi có người đến khai hoan thì biển mới bắt
đầu lùi ra tới tận vùng biển Phước Thuận bây giờ. Tiếng binh lính la ó
chính là tiếng vọng từ cảng nước mặn lúc con người đuổi thú khi xây chùa
chiền, nhà thờ, biết bao nhiêu trầm tích còn lại… Và đó là câu chuyện
dài tôi nghe được từ ông lão chăn trâu.
Câu chuyện được tôi viết lại bằng kí ức của mình
sau khi lang thang cùng khắp mọi ngõ ngách của đất Chà Bàn xưa, như là
nước giếng đã thấm vào da thịt, như là chất đạm từ thịt cá mà tôi và bọn
trẻ trong làng bắt được từ cánh đồng xứ sở, như là buổi chiều tôi ngồi
một mình trong sân nhà thờ Làng Sông, gió và cát và những đỉnh đêm chuốt
huốc, họng sóng, cho tôi say ngả nghiêng của mối tình với đất, với mùa
màng ân nghĩa…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét