Bạn
tôi rất thích cây cỏ, tối ngày chăm sóc khu vườn sau nhà. Chúng tôi
định cư ở thành phố Montréal và anh là người Việt đầu tiên mở tiệm hiệu
Bonsai ở thành phố nầy. Bonsai có thể mua ở các nhà sản xuất bên Mỹ và
cũng có tự sản xuất, tôi cùng anh thường vào các trại bán hoa kiểng lớn,
lục lọi các cây thông, cây tùng hư, cong vẹo, cằn cỗi, có khi là những
cây gần chết vụt bỏ thùng rác… mua rẻ đem về cắt bớt cành dư thừa, dùng
dây đồng uốn éo thành hình dáng đẹp, nuôi dưỡng một thời gian cho thành
bonsai, rồi đem bày bán. Cây làm bonsai thường là các loại cây xứ lạnh
lá nhỏ và giỏi chịu đựng thời tiết khắc nghiệt…
Một
hôm trong câu chuyện bàn về cây cỏ, anh nói trong một bài của tôi có
một chỗ sai và anh cho biết hoa Pivoine (Peony) không phải hoa Mẫu đơn
mà là Thược dược. Tôi hỏi anh căn cứ vào đâu mà nói vậy vì hầu hết các
tự điển đều ghi Pivoine là Mẫu đơn, còn Thược dược là Dahlia. (riêng tự
điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ thì cho là Mẫu đơn, hoa trắng thật
thơm, có nhiều tai, cuống mập như ống, đài 5 chia nhọn, lá láng mọc đối
và chùm ba, cây nhỏ trồng làm hàng rào cao tới 2 m, tên là Gardenia
Lucida (thực ra người Nam gọi Gardenia tới ba tên: Mẫu đơn, Dành dành,
bông Lài trâu. Gọi tên hoa Dành dành là đúng nhất. Ca dao có câu: Con vợ khôn lấy thằng chồng dại, như bông hoa lài cắm bãi cứt trâu. Nhớ đừng lầm với hoa Lài (Jasmine) ướp trà, hoa trắng nhỏ thơm lừng, người Ấn Độ thường dùng xỏ xâu đeo cổ).
Anh
chỉ bức tranh trên tường nhà tôi, nói - rõ ràng đây nè, bức tranh nầy
phải người Tàu vẽ hoa Mẫu đơn không? Tôi xác nhận đúng là như vậy. Tôi
cũng đã hiểu ý nghĩa bức tranh, đức Khổng Tử cho Mẫu đơn là phú quí chi
hoa, hoa Lan là vương giả chi hoa. Hai con bướm, chữ nho hiểu là trùng
điệp. Bốn chữ trong bức tranh với nét thảo tung hoành như lời mong ước,
chúc phúc - phú quí trùng điệp.
Nhìn
bức tranh cây hoa cao trên cả thước, thuộc loại thân mộc cứng màu đen
có nhiều cành phụ, anh nói -nếu như giống hình vẽ, hoa to bằng cái chén
lớn màu hồng, màu đỏ nhưng cây hoa ở Canada thuộc loại thân thảo mềm,
trồng bằng củ, mọc thành từng bụi, khi hoa nở nhiều cần cây chống, nếu
không chúng sẽ bị gió thổi gãy cành, đâu phải thuộc loại cây thân mộc
cứng cáp… Như vậy Pivoine Canada chỉ có thể là Dahlia thôi, không phải
là Mẫu đơn!
Tôi
không chịu vậy vì đã từng thấy mẫu đơn y như hình vẽ, rũ anh vào vườn
Bách Thảo, cạnh sân Vận Động Olympique, chỉ cho anh coi cả một khu trồng
cây Mẫu đơn thân mộc cao cỡ 2 thước, hoa nở đỏ rộ đẹp lắm, có bảng ghi
chú là Pivoine Chinoise (Chinese Peony) Tôi ước ao có được một cây mà
không biết mua ở đâu, phải mãi đến năm 1994 ở Canada mới nhập cảng giống
Mẫu đơn Trung Hoa thân mộc mà bán ngoài thị trường. Thực ra anh bạn
cũng có lý vì Mẫu đơn có nhiều loại: Loại thân thảo như Canada
(Herbaceous Peony / Pivoine Japonese. Tên khoa học là Peonia Lactiflora
họ Ranunculaceae, sách Việt Nam cũng ghi là Thược dược); Loại Mẫu đơn
thân mộc của Tàu (Peony Tree, Mutang (mẫu đơn) / Pivoine Arbustive:
Peonia Suffruticosa họ Peoniaceae). Tôi cho Peony dù là giống nào thì
cũng là Mẫu đơn. Còn Dahlia là Thược dược thuộc họ Asteaceae.
Kể
từ dạo đó, tôi nhớ lại tất cả những gì liên quan tới Mẫu đơn trong các
điển cố văn học Trung Hoa. Chuyện bà Võ Tắc Thiên đày hoa Mẫu đơn xuống
Giang Nam tới các câu tả Kiều bị Hoạn Thư đánh đập -Dạy rằng: cứ phép gia hình, ba cây chập lại một cành Mẫu đơn… rồi nhớ lan man qua Chinh Phụ: -xảy nhớ khi cành Diêu, đoá Nguỵ, trước gió xuân vàng tía sánh nhau. Họ Diêu tìm được giống Mẫu đơn màu vàng, họ Ngụy tìm được giống Mẫu đơn màu tía, mà tên tuổi được nhắc tới trong sử sách.
Nghĩ
tới nghĩ lui rồi chợt thấy mình bây giờ đang ở xứ lạnh như Trung Hoa,
tại sao lại bỏ qua cơ hội tốt để biết rõ những cây cỏ trong thơ văn cổ
Việt Nam. Người Tàu vốn có óc tưởng tượng phong phú, vật gì dù tầm
thường cách mấy vào tay họ thì biến đổi tốt đẹp quí giá không ngờ. Con
rắn sống lâu trăm tuổi thì có ngọc, chiếc vòng cẩm thạch có vân màu đỏ
là nhờ chôn chung với người chết hàng mấy trăm năm, đáng giá bạc triệu.
Cũng vậy một ông Tàu già cho rằng kiếng đeo mắt nhờ bỏ dưới giếng nước
lâu cả trăm năm nên nhìn mọi vật thấy rõ và mát lắm!!!
Thảo
mộc cũng vậy, cây nào bên Tàu cũng quí và thơ mộng hơn cây cối bên Việt
Nam. Thơ văn cổ mình có bao giờ nói tới cây Sao, cây Dầu, cây Bằng
lăng, cây Gõ, cây Cẩm lai, cây Mít, cây Ổi,… mà toàn là cây Ngô đồng,
cây Phong, cây Cù mộc, cây Tử, cây Tang, cây Du, cây Lê, cây Đào, cây
Hạnh… nghe thấy mê, nhưng đó toàn những cây xứ lạnh. May quá, chúng ta
bây giờ cũng ở xứ lạnh vậy, mà dám còn lạnh hơn bên Tàu nữa, vậy mấy thứ
cây đó là cây gì ở xứ Bắc Mỹ nầy? Biết đâu những tên cây thơ mộng, linh
thiêng, cao quí đó chúng mọc tràn lan ở rừng rậm, ở công viên, ở lề
đường hoặc sừng sững ở trước nhà!
Quả đúng vậy, cây Phong là thứ cây mà thơ văn mình thường nhắc tới. Cây phong (Érable / Maple) thứ cây đặc biệt của Canada, cây to cỡ hai ba người ôm, gỗ quí cứng chắc, vỏ nâu đen sần sùi, tàn rậm, lá to bằng bàn tay có 5 nhánh, hình dùng làm cờ tiêu biểu cho đất nước, Canada là Xứ Cây Phong, đi đâu cũng gặp.
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng thu phong đã nhuốm màu quan san. (Kiều)
Rừng thu phong đã nhuốm màu quan san. (Kiều)
Cũng
như các giống cây khác, phong có nhiều loại, thứ cho đường (Maple
Syrup), thứ chỉ trồng làm cảnh, Phong Tàu, Phong Nhựt, Phong Na Uy, Thụy
Điển, Phong Anh… (Acer Rubrum, Acer Saccharum, Acer Saccharium, Acer
Negundo, Acer Platanoides… thuộc họ: Aceraceae) Muốn biết cây Phong bạn
chỉ cần mở cửa, bước ra đường là thấy ngay, Phong được trồng dọc theo
đường phố, chỗ nào cũng có. Trên núi cao rừng sâu, Phong mọc ngút ngàn.
Sách Tàu cho là Phong Canada vào mùa thu, đẹp đến nỗi say đắm mê mẫn
lòng người - diễm lệ túy nhân. Thu đến lá phong đổi màu, tùy theo giống mà lá đỏ hay vàng.
Lúc
còn ở trong nước, có người thắc mắc - đã có gió rồi sao lại có phong
nữa? Câu hỏi khó, nhưng nếu đã ở hải ngoại, biết rõ phong là cây Phong
thì chắc không ai còn thắc mắc nữa, không cần phải học chữ nho làm chi.
Thi sĩ Tản Đà đã đổi nhịp ngắt câu quen thuộc của thơ Đường - trận gió thu, phong rụng lá vàng.
Nhưng
thiệt ra tôi vẫn cứ thắc mắc, mỗi lần đi ăn ở nhà hàng Hai Sư Tử phố
Tàu (Toronto) khi nhìn lên cao, rõ ràng hiệu tiệm ghi hai chữ Hán -
Phong Thành, nhưng tại sao chủ nhân lại ghi tiếng Anh là Bright Pearl
Restaurant? Nếu tôi lẩn thẩn dịch ra dành cho các cháu nhỏ hiểu thì phải
là như vầy: - Restaurant Bright Pearl (minh châu) = Phong Thành (thành
phố cây Phong ) = nhà hàng Hai Sư Tử. Trời đất, chắc các cháu hổng hiểu
gì hết trơn!
Có một loại cây mà thơ văn thường nhắc đi nhắc lại, khiến tôi tò mò. Đó là cây hoè.
Tiếng sen sẻ động giấc hoè, bóng trăng đã xế hoa lê lại gần (Kiều)
Thừa gia chẳng nết nàng Vân, Một cây cù mộc, một sân quế hòe (Kiều)
Sân hoè đôi chút thơ ngây, trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình. (Kiều)
Thừa gia chẳng nết nàng Vân, Một cây cù mộc, một sân quế hòe (Kiều)
Sân hoè đôi chút thơ ngây, trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình. (Kiều)
Cù mộc thì là cây Si (Ficus
Benjamina họ Moraceae), Việt Nam mình có nhiều, thuộc loại cây to, tàn
rậm, lá nhỏ, nhánh có nhiều rễ mọc lòng thòng xuống tới đất. Các bạn
thanh niên trai trẻ cũng thường trồng cây nầy ở gần nhà cô bạn gái dễ
thương…
Nhưng còn cây Hoè là
cây gì? Tìm tòi trong nhiều sách thì thấy rõ cây Hoè tên Latin là
Sophora Japonica, thuộc họ Fabaceae, cũng ghi chú là Japanese Pagoda
tree, Chinese Scholar tree. Tiếng Pháp lại ghi là Arbre de Miel hay
Arbre des Pagodes. Tiếng Á rập, Sophora có nghiã là cây mật, do hoa của
nó phát ra mùi mật ngọt ngào. Tuy Sophora có chữ Japonica đi kèm nhưng
không phải gốc ở Nhựt Bổn, mà từ Trung Hoa, do cha Pièrre d’Incarville
mang trồng ở Âu Châu. Ông đã sống ở Bắc kinh từ năm 1742 tới năm 1757.
Cây Hoè cao chừng 15 đến 20 thước, tàn rậm to, ngọn tròn vỏ đen nâu sần
sùi. Lá nhỏ như lá me, mọc đối nhau, trái cũng giống như trái me nhưng
nhỏ và giẹp. Hoa vàng tươi nhỏ cỡ 1 cm, nở vào tháng tám bồng bềnh dày
đặc trên cành, mùi thơm nồng đượm ngọt ngào. Vài ngày sau khi nở thì
phai trắng nhạt từ từ, rụng thành một thảm hoa trắng trên bãi cỏ xanh.
Lá Hoè cũng rụng vàng vào mùa thu nhưng là loại lá rụng cuối cùng, sau
tất cả các cây khác. Bên Trung Hoa, người ta nấu những nụ hoa Hoè dùng
để nhuộm tơ màu vàng, cũng dùng làm thuốc (Hoè hoa, Hoè mễ, Hoè diệp).
Trong Lục Vân Tiên cũng có câu – buồn trông dặm liễu đường hoè
Cũng do bản tánh tò mò mà tôi biết được cây Ngô đồng, một loại cây được cho là quí hiếm. Cổ thi có câu: -ngô đồng nhứt diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu(một lá ngô đồng rụng thiên hạ biết thu tới). Kiều cũng có nhiều – Thú vui thuần hức bén mùi, giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
Nhớ sách cổ đã ghi - cây ngô đồng mỗi cành có 12 lá, năm nào nhuận thì
13, tương ứng với thời tiết hàng năm. Chim phượng hoàng là giống chim
linh thiêng, nếu không phải cành Ngô đồng thì không đậu, không phải trái
Trúc thì không ăn (phi ngô đồng bất thê, phi trúc thực bất thực).
Nhạc sư Hoáng thời tiền cổ Trung Hoa, chọn gỗ cây Ngô đồng chế ra cây
đàn cầm. Ông không lựa chỗ gốc vì âm thanh thô cứng, không lấy khúc ngọn
vì âm thanh nhẹ yếu, chọn khúc giữa, âm thanh trong trẻo và êm ái, đều
hòa. Khi làm đàn xong mỗi lần tấu lên, chim phượng hoàng bay về đậu
trước sân, múa theo điệu nhạc….
Bắc thang đến cung mây mà hỏi, biết bao giờ phượng tới cành ngô (Bần Nữ Thán)
Cây
Ngô đồng là cây gì mà quí tới như vậy. Thi sĩ Lưu Nguyễn, bạn tôi quê
Quảng Nam, nói ở ngoài Trung Ngô đồng nhiều lắm, ở Huế trong các lăng
Gia Long, Minh Mạng cũng trồng thành hàng. Anh tỉ mỉ tả cây Ngô đồng cho
tôi nghe, cuối cùng tôi cũng không biết là cây gì.
Thi hào Đỗ Phủ trong bài Thu Cảm cũng có hai câu đảo trang tuyệt bút về cây ngô đồng:
Hương đạo trác dư anh vũ lạp, bích ngô thê lão phượng hoàng chi (chim anh vũ - con két, mổ những hạt lúa thơm còn sót lại, chim Phượng hoàng đậu trên cành ngô đồng xanh già.)
Hương đạo trác dư anh vũ lạp, bích ngô thê lão phượng hoàng chi (chim anh vũ - con két, mổ những hạt lúa thơm còn sót lại, chim Phượng hoàng đậu trên cành ngô đồng xanh già.)
Muốn
tiếng đàn kêu vang to khiến chim phượng tìm đến để nghe thì phải là
loại cây có sớ gỗ cứng chắc bền bĩ, tiếng vang, không nứt, không vênh,
không dễ hư mục.
Cây Ngô đồng (Firminia
Simplex) người Anh gọi Chinese Parasol tree, cũng gọi là Pheonix tree
(cây Phượng hoàng), tiếng Pháp là Sterculia à Feuille de Platane. Tên
khoa học Firminia Platanifolia hoặc Sterculia Platanifolia, họ Trôm
Sterculiaceae. Cây cao trung bình từ 12 đến 15 thước. Có nhiều ở Việt
Nam, Trung Hoa, Nhựt Bổn…. Loại cây rụng lá hằng năm, thân thuộc loại gỗ
cứng, có vỏ láng xanh, lá to mọc thành chùm trên mỗi cành, cuống lá dài
trên 20 cm, mỗi chùm có 12 lá, lá có chỉa 3 hoặc 5 giống lá phong nhưng
hơi tròn đầy lớn hơn lá phong. Hoa nở vào mùa xuân, cánh hoa thon dài
như hoa ngọc lan màu trắng ửng nhụy vàng, bao lấy chùm trái nhỏ như hạt
tiêu ở giữa. Trong những công viên ở Nhựt, Trung Hoa, Ngô đồng có tàn lá
như chiếc dù che cả một vùng rộng lớn, rất đẹp. Vì thuộc họ Trôm nên
thoạt nhìn thấy giông giống như cây Vông, cây Trôm… Người trong Nam
thường lầm lẫn cho Ngô đồng là cây Vông đồng. Nếu là cây Vông nem thì gỗ
sốp, mềm lắm, da có gai, chỉ dùng làm guốc vông, lá để gói nem. ‘Việt
-Hán Từ Điển Tối Tân’ nxb Chin -Hoa (Chợ Lớn) ghi cây Vông là ‘Thúc
đồng’, không phải Ngô đồng.
Đó
là loại ngô đồng Hoa Bắc. Khi vào vườn Thượng Uyển trong Tử Cấm Thành
Bắc Kinh, bạn đọc có thể tìm gặp cây Ngô đồng loại Firmania Simplex nầy,
tàn lớn cao to, da xanh, cọng lá dài, lá giống lá Phong xòe ra năm cánh
to như lá đu đủ rán để vào túi đeo lưng nhưng không trọn.
Bên
Âu Châu, các nước Pháp, Ý, Thụy sĩ, Anh, Belgique,… bốn mươi phần trăm
cây trồng vỉa hè là Dương Ngô đồng (chữ dương bộ thủy, có nghiã là Ngô
đồng ngoại quốc, tên khoa học: Platanus Orientalis - Platanus
Occidentalis thuộc giống Platanus Acerifolia, họ Platanaceae). Nó được
trồng nhiều vì dáng đẹp, sống lâu, không sợ giông bão, chịu đựng được ô
nhiễm, ít bịnh và cho nhiều bóng mát. Loại cây nầy cũng được trồng nhiều
ở thành phố New York, khu nhà chọc trời, khu Liên Hiệp Quốc, chỗ tượng
Nữ Thần Tự Do. Tên Anh là Planetree hay Sycamore, Pháp là Platane, cây
to gỗ cứng, tàn lớn cao 25-30 thước, da láng nâu đen như da ổi, lá giống
lá Phong chia năm, có trái thoạt nhìn giống trái chôm chôm xanh, khi
già thì màu đen. Theo tài liệu thì hiện nay ở Hy Lạp trong vườn nhà ông
Tổ Y khoa Hippocrate thành phố Kos, vùng Dodécanèse, có cây Platane sống
trên 2000 năm, cao 45 thước, chu vi gốc 14 thước… Người Hy Lạp cổ cho
là loại cây tái sinh (regénération) vì lớp vỏ cũ bong ra, lớp vỏ mới
thay thế, như rắn lột da sống đời. Con ngựa thành Troie (Troy) được làm
bằng gỗ Platane (Dương Ngô đồng)
Cây Ngô đồng Hoa Nam
Các
tỉnh Hoa Nam và Tây Nam như Tây An, Trùng Khánh, Vũ Hán, Giang Tô, Phúc
Châu, Tô Châu, Hàng Châu, Triết Giang…, các tỉnh dọc theo sông Dương
Tử, đi đâu cũng thấy cây Ngô đồng, được người dân nơi đây gọi là Pháp
Quốc Ngô Đồng, cây nầy được trồng dọc theo lối đi để lấy bóng mát, rất
đẹp và nhiều như cây Phong ở Canada vậy. (ghi chú của tác giả: có đi bên
Tàu thì mới biết cây Ngô đồng mọc rất nhiều từ Bắc xuống Nam, chỗ nào
nơi đâu cũng toàn là Ngô đồng, nếu dùng gỗ làm đàn thì tiện lắm không
cần tìm cây khác chi cho mất công và chim Phượng hoàng không đậu trên
cây Ngô đồng thì đậu cây nào bây giờ…)
Trong
Chinh Phụ Ngâm Khúc cây Dâu tằm ăn thường được nhắc đi nhắc lại. Ở Việt
Nam thì cây Dâu được trồng nhiều. Ngày trước ở Tân Châu (Châu Đốc)
trồng dâu để nuôi tằm dệt lãnh Mỹ A, bây giờ thì ở Đà Lạt. Ngoài Bắc thì
tôi đoán chắc là Hà Đông, nổi tiếng nhờ lụa dệt bằng tơ tằm (Hà Đông
cũng có loại lụa, dệt bằng lông sư tử, nhưng không thuộc phạm vi bài
nầy!) Còn ở thành phố Athens (Greece) thì cây Dâu được trồng ở nhiều lề
đường để lấy bóng mát.
cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
ngàn dâu xanh ngắt một màu, lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. (Chinh Phụ)
ngàn dâu xanh ngắt một màu, lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. (Chinh Phụ)
Câu
hỏi thiệt là khó, nỗi sầu làm sao đong đếm, ai mà trả lời cho được. Chỉ
có một chữ cổ khó hiểu là chữ ngàn. Ngàn có nghiã là rừng:
- Đốn tre đẵn gỗ trên ngàn.
- Đôi ta là nghiã tào khang, xuống khe bắt ốc lên ngàn hái dâu (ca dao).
- Đôi ta là nghiã tào khang, xuống khe bắt ốc lên ngàn hái dâu (ca dao).
Cây
Dâu tằm ăn thì không cần tả rõ vì ai cũng biết nhưng có một cây lạ
thường được nói chung khi người xưa nhắc tới cây Dâu. Đó là cây tử.
Trong Kinh Thi có câu: - Duy tang dữ tử tất cung kính chỉ. - Khi
thấy cây Dâu và cây Tử thì mình phải cung kính. Tại sao vậy? Bởi vì cây
Dâu, cây Tử là do cha mẹ trồng. Lá Dâu để mẹ nuôi tằm dệt vải. Cây Tử
cha trồng ngày sanh con. Cây Tử cao to lớn cứng chắc, sau hai ba mươi
năm, cột nhà sẽ mục nát, con có cây sẵn mà thay. Cha mẹ già yếu sẽ chết,
con có sẵn gỗ tốt mà đóng quan tài. Tang tử hay Tử phần cũng có nghiã
là quê hương.
- sân Lai cách mấy nắng mưa, có khi gốc tử đã vừa người ôm.
- sắm xanh nếp tử xe châu, vùi nông một nắm mặc dầu cỏ hoa.
- đoái thương muôn dặm tử phần. Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa (Kiều).
- sắm xanh nếp tử xe châu, vùi nông một nắm mặc dầu cỏ hoa.
- đoái thương muôn dặm tử phần. Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa (Kiều).
Vua
Ngô Phù Sai muốn lập đài Cô Tô thật cao mà không có cây làm cột. Việt
Vương Câu Tiễn cho người đi tìm thì được cây Nam ở phía Bắc núi Việt,
cây Tử thì ở phía Nam, mỗi cây to 20 vây và cao hơn 50 tầm, đốn đem dâng
vua Ngô. Cây Tử trong sử sách quí như vậy, thì là cây gì, ở Canada? Các
tự điển Hán - Việt đều ghi cây Tử là một giống cây lớn, chỉ quê hương,
rồi hết. Duy Viễn Đông Thực Dụng Anh - Hán Tự Điển (Far East Practical
English - Chinese Dictionary) ghi chú rõ cây Tử là Catalpa, tiếng Anh và
Pháp giống nhau. Cuốn The Urban Tree Book, tác giả Arthur Plotnik (nxb
Three River Press) chú thích kỹ và có hình vẽ rõ ràng.
Ở
Toronto cây Tử khá nhiều, được trồng dọc lề đường khu phố Tàu. Thân cây
to cao độ 20-25 thước, lá to cỡ lá trầu xanh mướt, tàn lớn rậm, bông nở
mùa hè màu trắng, nhụy tím vàng, mùa thu có trái dài từ 15-40 cm, thòng
xuống như trái đậu đũa nhưng thon nhỏ hơn. Cây Tử thuộc họ
Bignoniaceae, giống Catalpa, có người gọi cây đậu đũa Ấn Độ… Mỗi lần đậu
xe trên các đường nhỏ xung quanh khu phố Tàu, tôi thường nhìn hàng cây
Tử gốc to cỡ cột nhà, ước ao làm sao trồng được năm ba cây trong vườn,
đến khi tuổi già, con cái sẽ dùng tới để lo cho mình, tiện lắm, khỏi
phải tốn kém nhiều, bận lòng mấy đứa nhỏ.
Còn cây Dẻ là
cây gì? Chúng ta thường nghe nói - mắt đẹp màu hạt dẻ. Đó là cây
Châtaignier cũng là Marronnier / Chesnut tree. Chữ Nho đọc là cây Lật.
Cây Lật to, lá to, tàn rậm, cao cỡ trên 20 -25 thước, trái nhỏ bằng trái
cau, vỏ có gai, tới cuối thu thì vỏ khô, hạt bung ra rụng đầy gốc. Mùa
đông bỏ hạt dẻ (Marron / Chesnut) vào lò sưởi nướng ăn rất ngon, nên nhớ
xâm lủng vỏ bên ngoài, nếu không khi nướng, hột dẻ sẽ nổ ra, nát vụn
hết. Tiệm tây hay Việt, Tàu đều có bán.
Cây Du (Orme
/ Elm, thuộc họ Ulmaceae, giống Ulmus,) loại cây lớn to, cao độ 20, 30
thước, gỗ cứng, dùng chế tạo bàn ghế, vật dụng trong nhà. Cũng là loại
cây thường được người thích bonsai ưa chuộng vì lá nhỏ đẹp giống lá trà
có răng cưa và sức chịu đựng bền bỉ sương tuyết nắng mưa. Thu đến lá Du
đổi thành màu vàng chanh nhạt. Cây Du có thể mọc ở đồng bằng mà cũng có
thể mọc ở vách núi đá cheo leo, đất xấu tốt nào cũng sống được.
Chúng ta cũng thường bắt gặp cây Bạch dương trong thơ văn. Như trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của Nguyễn Du:
Tự
điển không thống nhất về cây Bạch dương nầy. Có khi là cây White Poplar
/ Peuplier, có khi là Birch / Bouleau, có khi là Trembling Aspen (or
Quaking Aspen) (tên khoa học là Populus Tremuloides, Populus Alba,…
thuộc họ Dương liễu Salicaceae). Gọi là Trembling hay Quaking vì cây nầy
khi có chút gió thì đám lá rung rinh như đàn bướm bay. Thôi cứ tạm hiểu
Bạch dương có nhiều loại nhưng giống nhau có vỏ trắng, sớ gỗ mềm,
thường dùng làm diêm quẹt. Người da đỏ tách vỏ cây bạch dương già (Birch
/ Bouleau) kết chặp vào nhau, dùng nhựa thông trét kín nước, để làm ghe
Kayak (Canoe). Ghe Kayak nhẹ chắc chắn, khi phải qua rừng rậm, núi non,
thổ dân có thể đội ghe trên đầu mà đi.
Còn Đường lê, một cây cao trung bình, tên khoa học là - Pyrus Betulaefolia họ hoa hồng Rosaceae.
Trong Bần Nữ Thán tác giả thường nhắc tới cây hạnh:
ai ơi xin chớ cười nhau, chẳng qua mai trước, hạnh sau khác gì.
mai nở trước, mai cười hạnh muộn, hạnh nở sau hạnh ngắm mai suy.
hạnh mai cười lẫn nhau chi, đến kỳ kết quả, đến kỳ khai hoa.
mai nở trước, mai cười hạnh muộn, hạnh nở sau hạnh ngắm mai suy.
hạnh mai cười lẫn nhau chi, đến kỳ kết quả, đến kỳ khai hoa.
Trong
đoạn thơ nầy, mai không phải là cây hoa Mai vàng (Ochna Intergerrima,
họ Ochnaceae) ở miền Nam, nở mỗi khi Tết đến. Mà là cây Mai (Prunier,
Abricotier / Plum tree; Apricot tree) cho trái Mơ (Prune, Abricot /
Plum, Pricot).
Đức
Khổng Tử thường ngồi dạy học ở đàn hạnh, vì thế nên thường dùng chữ
hạnh đàn để ám chỉ trường học. Nhà Đường cho các học trò đỗ Tiến sĩ vào
ăn yến ở vườn hạnh, nên tục gọi người thi đậu là hạnh lâm. Người mình
cũng gọi cây Tắc (cây Quất: một loại quít nhỏ trồng để làm cảnh) là cây
Hạnh. Không phải hạnh trong thơ văn.
Cây Hạnh giống
cây Táo (Pommier / Apple tree) hoặc giống cây hoa Anh đào, cao độ 4, 5
thước, hoa đỏ hường, mùa xuân bông đơm đầy cành, trông rất đẹp. Trái nhỏ
cơm không ăn được, chỉ ăn hột. Mỗi cây cho từ 2 đến 5 kí hột, chợ nào
cũng có bán, giá khá mắc. Trong thuốc bắc có vị Hạnh nhơn (hột hạnh dẹp
thon dài) và Đào nhơn (hột đào dầy hơi tròn, mùi hăng hắc, nồng mạnh hơn
hạnh nhơn, cả hai dùng trị bịnh ho). Cây Hạnh là cây Amandier / Almond
tree. Tên khoa học là Amygdalus Communis, họ Rosaceae. Có nhiều giống
Hạnh: Prunus Triloba, Prunus Armenica, Prunus Amygdalo - Persica, Prunus
Dulcis…
- hoa chào ngõ hạnh, hương bay dặm phần. (Kiều)
- dần dần năm đã kể ba, hạnh vừa độ thắm, liễu vừa phần son. (Bích Câu Kỳ Ngộ)
- dần dần năm đã kể ba, hạnh vừa độ thắm, liễu vừa phần son. (Bích Câu Kỳ Ngộ)
*Đừng lầm cây Hạnh (amandier) với cây Ngân hạnh,
cũng gọi Công tôn thụ hay Bạch quả thụ (Ginkgo Biloba). Cây Ngân hạnh
thuộc loại cây to cao chừng 30 thước, có nhiều tên: Ginkgo Biloba,
Maidenhair -tree, the Memory - tree (F: Ginkgoaceae G: Ginkgo), quả ăn
được, hạt nó là bạch quả, thường dùng để nấu chè, ăn giúp trí nhớ. Đó là
loại cây quí từng tồn tại qua hàng trăm triệu năm từ thời tiền sử có
loại khủng long cho tới ngày nay không thay đổi hình dạng. Rất dễ nhận
ra cây ngân hạnh vì tàn lá xanh um tươi tốt.
Năm
1587 sách thuốc Trung Hoa gọi nó là Áp cước thụ (Eleusine - Coracana)
cây có lá hình tam giác giống chân vịt xòe, cũng được trồng ở phố Tàu
Toronto, ở các khu nhà chọc trời New-York hay ở Genève. Cây Ngân hạnh là
loại cây quí, không bao giờ bị nấm, ký sinh, sâu mọt hay hư mục. Ở
thành phố Hiroshima khi bị bom nguyên tử, tất cả các cây đều chết tàn
lụi, chỉ có Ngân hạnh là còn sống sót. Trong rừng núi Trung Hoa, Nhật
Bổn, Đại Hàn có nhiều cây sống lâu cả ngàn năm. Người ta trồng Ngân hạnh
thành đồn điền lớn, lấy lá nó dùng làm thuốc giúp trí nhớ, cùng trị
bịnh Alzheimer cho người lớn tuổi. Ngoài tác dụng giúp trí nhớ, lá Ngân
hạnh còn dùng làm dược thảo ngăn ngừa tác dụng lão hóa con người… Tóm
lại chúng ta nên thường ăn chè bạch quả, còn không thì mua Ginkgo Biloba
về uống trẻ mãi không già, chỉ tốn chút ít tiền cho quí vị Dược sĩ.
Còn
cây Olive/ Olivier (Olea Europaeae họ Oleaceae) thì ít khi thấy trong
văn thơ, tuy trái và dầu nó mình dùng mỗi ngày. Cây Olive cao chừng 10-
15 thước, gốc to cỡ người ôm, sống hàng trăm năm, cành nhiều, vỏ xám sần
sùi, lá nhỏ dài như lá trúc đào, mọc đối, mặt trên xanh, mặt dưới xám
bạc, hoa nhỏ cánh rời tỏa tròn, màu trắng xanh, mọc thành chùm, quả mọng
hình bầu dục dài 2,5 -3cm màu xanh, khi chín thì đen đen, thường thấy
mọc trên các sườn núi đá cheo leo. Cành Olive tượng trưng cho sự hoà
bình, làm thành vòng đội lên đầu tượng trưng cho chiến thắng vinh quang.
Cây già cỗi có dáng uốn éo đẹp như bonsai. Được trồng nhiều ở khu vực
Địa Trung Hải. Chữ Nho gọi là Cảm lãm thụ. Cảm lãm quả là trái ô - liu,
miền Bắc gọi quả trám. Từ chữ cảm lãm biến âm thành quả trám, nhưng
trong Nam thì gọi là trái cà na. Vì ở Ấn Độ có cây Canna, cây và trái
giống ô - liu. Trong rừng núi tỉnh Darlac có nhiều cây Canna. Trám có
nhiều loại: trám hồng, trám ba cạnh, trám kênh, trám lá đỏ, trám trắng,
trám mũi nhọn,.. tên khoa học là Canarium Bengalese, Canarium Subulatum,
Canarium Album, thuộc họ Trám Burseraceae.
oOo
Để
kết thúc bài cây cỏ nầy, tôi muốn nhắc tới một loại cây rất tầm thường ở
nước ta, thường mọc hoang và cũng có trồng, không ai thèm để ý tới. Sau
năm 1975 thì cả nước đều biết, cải tạo viên thì biết rõ hơn hết. Ở Việt
Nam thì nó tầm thường nhưng đối với Tàu ngày xưa được quí trọng như
vàng, như ngọc. Đời ngược ngạo và khôi hài vậy đó. Chuyện được ghi trong
Hậu Hán Thư đàng hoàng. Đó là cây Bo-bo, có liên quan tới Mã Viện, Phục
Ba Tướng Quân. Cây Bo bo (Sorgho / Sorghum Vulgare) thân thảo giống cây
Lau cây Sậy, cao chừng cỡ cây mía, hoa trắng trổ cao thành cờ, hột bo
bo giống đậu nành, đậu chi chít thành chùm trên ngọn. Hột bo bo có thể
thay cơm, thay cháo ăn đỡ đói khi thiếu thực phẩm. (hiện nay ở Trung Hoa
trồng bo bo thành đồn điền lớn, loại Sorgho à sucre, mỗi mẫu chế được
7000 lít rượu Éthanol, dùng thay xăng)
Tên
chữ Nho của Bo bo là Cao lương, Mộc mạch hay Đới thục mạch. Trong Thần
Nông Bản Thảo gọi là Ý dĩ, là một món thuốc bắc, tiêu khát, giải độc,
người ta thường dùng để nấu chè ăn cho mát (sâm bổ lượng). Việt Nam
mình, khí hậu tốt nên Bo bo rất dễ trồng. Sau khi Mã Viện tiến đánh Giao
Chỉ (năm 43 sau TL) tiêu diệt kháng chiến Hai Bà và ổn định công cuộc
trị an địa phương thì có chiếu vua triệu về. Mã Viện ham ở Giao Chỉ, lấy
cớ tuổi già sức yếu nên chần chờ, lần lữa… Mãi đến khi chiếu triệu lần
thứ hai, Mã Viện mới đành tuân chỉ ban sư, quy hồi cố thổ. Trong đoàn
quân rầm rộ về kinh, ngoài quân nhu quân dụng, có chở thêm ba cỗ xe chở
đầy, nặng, được đậy đệm kín mít.
Sau
khi về triều, Mã Viện tâu trình và đệ nạp tất cả ngọc ngà châu báu, của
cải chiếm được lên vua. Tưởng là yên chuyện nhè đâu có người tố cáo với
Hán Vũ Đế là trong danh sách đệ nạp các chiến lợi phẩm, sao không thấy
ba xe chở đầy ngọc trai mà Mã Viện bắt dân Giao Chỉ mò tìm ở biển đông?
Mã Viện sợ hãi tâu trình – xứ Giao Chỉ nhiều sơn lam chướng khí, hạ
thần khi qua đó bất hạp thủy thổ, phong thấp thương hàn, may nhờ thầy
thuốc giỏi, điều trị bằng Ý dĩ, hạ thần mới được bình an. Ba xe đó không
phải ngọc trai mà là ba xe Ý dĩ, thần có ý lo xa, khi về tới nước nhà
rồi, làm sao có được nữa, mong bệ hạ xét lại!. Hán Vũ Đế ngẫm nghĩ
hồi lâu, biết bị qua mặt, tức giận vì không tìm ra bằng chứng, bèn ra
lịnh cách hết chức tước, không tịch thu gia sản mà cho về hưu. Mã Viện
cũng còn may giữ được cái mạng già nhờ mấy hột Bo bo Việt Nam. Mới biết
sống gần vua như sống gần cọp. Cũng là quả báo nhãn tiền cho kẻ xâm
lăng.
Ý
dĩ hay là ngọc trai, ai mà biết được? Các bạn thử nghĩ coi, không lẽ
bắt quân lính ỳ ạch leo đèo vượt núi đi xa ngàn dặm, đẩy về nhà ba xe Bo
bo không đáng mấy lượng bạc! Phục Ba Tướng Quân Mã Viện, danh tướng đời
Hán, đánh thắng được hai người đàn bà ở một tiểu quốc, dựng đồng trụ để
khoe công, thì thật là đại anh hùng. Mà đã là đại anh hùng thì đâu có
ngu!
Võ Kỳ Điền
25-11-2005
25-11-2005
Phụ Chú bài Thảo Mộc Trong Cổ Văn Việt Nam
….. vài ghi nhận nhỏ thấy được trong chuyến đi liên quan tới bài “Thảo mộc trong cổ văn Việt Nam” đã
được phổ biến rộng rãi. Những gì tôi đã viết là do nghiên cứu, tìm tòi
trong sách vở, còn bây giờ là rõ ràng mắt thấy tai nghe trong hai chuyến
đi cuối năm 2009- 2010…
Ở
thành phố Bắc Kinh, ngoài các loại cây Tùng bá xứ lạnh, dọc theo lề
đường họ thường trồng cây Hòe, tán tròn lớn, lá nhỏ như lá me. Trong
công viên có bảng trên thân cây đề rõ là “Quốc Hòe” (Chinese Sophora).
Các khu đất trống bên các xa lộ thì phần nhiều là Bạch dương (Birch,
Bouleau), thân trắng như vôi.
Tôi
lục lọi tìm thì thấy được một cây Ngô đồng ở vườn Thượng Uyển trong Tử
Cấm Thành, có tán rộng bao trùm một vùng rộng lớn như cây dù. Vì vào
cuối thu nên phần lớn lá rụng vàng phủ đầy gốc, da cây xanh xanh nứt nẻ
như da vông nem mà không có gai. Lá chia làm năm nhánh lớn cỡ cái quạt.
Tôi lựa một lá đẹp còn nguyên vẹn, hỏi người hướng dẫn và vài người du
khách xung quanh, họ đều không biết thuộc cây gì. May quá, có một ông
già công nhân làm vườn người Tàu, đang quét lá, tôi hỏi ngay và được trả
lời rõ ràng là… lá cây Ngô đồng (wũ thũng yé). Mừng quá, hỏi đi hỏi lại
cho chắc. Đó là loại Ngô Đồng (Firmana Simplex hay Pheonix tree) đúng y
như cây mà tôi đã viết. Tôi tính ép lá trong cuốn sách, đem về làm kỷ
niệm nhưng không được vì chiếc lá to quá, bề ngang cỡ 30 cm là ít, đành
để trong chiếc túi đeo lưng, khi về tới khách sạn thì chiếc lá vàng khô
bể vụn như bánh tráng!
Nhưng
khi về tới miệt Hoa Nam, dọc theo Trường Giang, trời còn ấm áp, cây lá
xanh tươi, ngang qua các vùng Trùng Khánh, Hoàng Sơn, Vũ Hán, Tô Châu,
Hàng Châu, Thượng Hải… tôi để ý thì thấy cây Long não và cây Ngô đồng
được trồng dọc theo lề đường rất nhiều, chúng tạo nên một không gian
xanh mát, đẹp đẽ nên thơ, mọi người trên xe đều trầm trồ, nhất là khi
vào công viên du lịch Hàng Châu. Anh hướng dẫn viên cũng nói là “wũ
thũng” nhưng khi nói sang tiếng Anh, anh gọi hàng cây nầy là Sycamore.
Vì
Ngô đồng miệt nầy khác loại cây Ngô đồng Bắc Kinh. Đó là loại “Dương
ngô đồng” bên Âu châu (Platane hay Sycamore). Lá nhỏ cỡ bàn tay và giống
y lá Phong ở Canada và da láng mốc trắng như da ổi. Tuy vậy các cây ở
đây không lớn lắm, to vừa phải, cao chừng 20 m, có lẽ mới được trồng
chừng vài ba chục năm trở lại. Tôi đã từng thấy ở vùng Lido, Venise,
nhứt là ở Pisa, Lucca, Rome… (Ý) nhiều thân cây lớn cỡ ba người ôm.
Vì
thấy các cây nầy khác cây ở Bắc Kinh, khi mua một nghiên mực ở Cảnh Đức
Trấn (Giang Tô) tôi đã bẻ một cành lá, hỏi ông chủ tiệm, ông cũng gọi
là Ngô đồng. Tôi hỏi tại sao cây nầy không giống cây ở Bắc Kinh? Ông trả
lời là không biết nhưng xác định rõ, đây là cành lá cây Ngô đồng. Như
vậy Ngô đồng có nhiều loại, tùy theo địa phương và khí hậu mà là cùng
một giống hay khác nhau. Giống Ngô đồng Hoa Bắc khác hoàn toàn với Ngô
đồng Hoa Nam. Trường hợp nầy không giống như cây Liễu. Liễu Canada thì
to lớn và mạnh mẽ tuy lá cũng rũ xuống nhưng trông dáng vẻ khoẻ mạnh,
cứng cáp. Còn ở Tô Châu, Hàng Châu thì Liễu mềm mại, uyển chuyển, ẻo lả.
Cứ nhìn thiếu nữ Tàu và đầm Canada, Mỹ thì biết liền….
Hàng
Châu cũng có nhiều cây Chương (Cinnamomum Camphora, Chương thụ hoặc
Chương não, Hương chương, VN gọi là Dã hương) đó là cây Long não. Thân
cây to da sần sùi, tán tròn lớn, chừng 20 thước cao, lá thon nhỏ, màu
xanh đậm, vò nát trong tay thơm mùi Long não hăng hắc, trái tròn chín
láng đen, nhỏ cỡ hột tiêu, cuối thu rụng đầy đất…. Vùng nầy thuở xưa có
phong tục, khi sanh con gái thì trồng cây Chương trước nhà. Khi con lập
gia đình thì đốn cây lấy gỗ làm giường cho đôi tân hôn, làm rương để
đựng nữ trang về nhà chồng. Nhà nào mà khi đi ngang qua, thấy cây Chương
ngày một lớn, mà chưa bị đốn đi… thì bất cứ ai chợt thấy chắc cũng phải
xót xa!!!
Một
trong các bài văn viết về Ngô Vũ Bích Diễm của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn,
có đoạn tả nàng mỗi ngày đi học, ngang qua hàng cây Long não xanh mướt
lá nhỏ li ti đến trường, hàng cây Long não êm đềm được lập đi lập lại
như một điệp khúc (*). Mỗi lần đọc ngang qua đây, tôi như cảm thấy được
từng bước từng bước chân nhẹ nhàng của người con gái dịu dàng, đẹp đẽ,
ngây thơ, trong sáng dịu hiền, thơ mộng… Câu văn viết như câu thơ và câu
thơ nghe chừng thánh thót tiếng nhạc. Nhờ yếu tố nầy ngày xưa tôi từng
say mê văn thi sĩ Đinh Hùng, bây giờ tôi đâm mê văn nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn, chưa nói chi tới chuyện mê nhạc, mê thơ. Tưởng chừng trong đời, tôi
chưa từng thấy ai viết câu văn hay và đẹp như vậy. Tôi có lầm lẫn
không, nhè thi sĩ làm thơ, nhạc sĩ viết nhạc mà lại mê từng chữ, từng
câu văn được trau chuốt thần tình? Chắc là tại tuổi già, đầu óc lẩm cẩm,
khi nhớ khi quên. Thiệt là ba trợn!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét