Nushu là một hệ chữ viết tượng
thanh âm tiết, do phái nữ sáng tạo ra, được bảo mật và chỉ dành riêng
cho họ. Với những nét chữ uốn lượn lịch lãm và độc đáo, ngôn ngữ bí mật
Nushu này đã giúp cho không biết bao nhiêu thế hệ người Dao ở Trung Quốc
và các nước lân cận có thể trao đổi thông tin với nhau trong điều kiện
không được học chữ, không được tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Cho đến nay, nguồn gốc và thời điểm ra
đời của ngôn ngữ Nushu vẫn chưa được xác định. Nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng nó bắt đầu từ thế kỷ thứ 3 sau công lịch, thời kỳ mà chính quyền
Trung Quốc cấm phụ nữ đi học. Những hủ tục như sắp xếp hôn nhân hay bó
chân cũng ngăn cản nhiều cô gái đi xa khỏi quê hương của họ. Nushu được
cho là bắt nguồn từ tục lệ “chị em kết nghĩa”. Những người phụ nữ nguyện
suốt đời gắn bó với nhau dùng ngôn ngữ bí mật này để viết về những nỗi
khổ đau và niềm thương nhớ khi phải đi lấy chồng xa, cách mặt với gia
đình và chị em. Một câu thường được viết đi viết lại nhiều lần trong
ngôn ngữ Nushu là: “Bên cạnh giếng nước thì người ta không biết khát,
bên cạnh chị em thì người ta không biết khổ đau”. Ngôn ngữ Nushu còn
được dùng để ghi lại những điều tâm sự riêng tư của nữ giới mà nam giới
không thể hiểu được.
Nushu thường được thêu trên trang phục
Được cho là một loại chữ viết cổ bí ẩn
được tạo ra và độc quyền dùng cho phụ nữ, Nushu được mẹ truyền cho con
gái và chỉ có những người phụ nữ được truyền mới có thể hiểu được ngôn
ngữ này. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Nushu bắt nguồn từ tiếng thổ ngữ
của người Dao thuộc Khu Tự trị người Choang. Hình thức của ngôn ngữ này
trông giống như tiếng Trung, nhưng mỗi chữ chỉ đại diện một âm đơn lẻ,
tựa như các chữ cái trong hệ thống ngôn ngữ Roman, chứ không có tính
tượng hình như trong tiếng Trung. Nushu thường được thêu trên trang
phục, xen lẫn với các họa tiết đặc trưng của dân tộc, nên nó tồn tại qua
nhiều thế hệ mà không được phát hiện.
Nushu thường được thêu trên trang phục, xen lẫn với các họa tiết đặc trưng của dân tộc
Theo một số nghiên cứu được công bố,
ngôn ngữ Nushu có thể được hình thành trong bối cảnh cuộc sống của người
phụ nữ vùng Giang Vĩnh, tỉnh Hồ Nam (miền Nam Trung Quốc), bắt đầu bó
chân từ năm lên 7 tuổi, quanh năm chỉ sống trong phòng dành riêng cho
con gái khi còn nhỏ, lớn lên cũng chỉ ở trong nhà chồng. Công việc chính
của họ là may vá, thêu thùa quần áo cho cả gia đình. Để đỡ buồn chán và
hỗ trợ nhau, các cô gái trẻ thường tụ tập kết giao với nhau từ nhỏ cho
đến khi lấy chồng. Trong nhóm nhỏ đó thì mỗi cô gái lại có một người gọi
là chị em kết nghĩa. Tình cảm chị em kết nghĩa này hết sức nghiêm túc,
được cộng đồng công nhận và kéo dài cho đến cuối đời của người phụ nữ.
Các cặp chị em kết nghĩa này có nhiều điểm giống nhau ví dụ như cùng
sinh một ngày, có khuôn mặt giống nhau và chiều cao như nhau. Chị em kết
nghĩa chia sẻ, gắn bó và giúp đỡ về mặt tình cho nhau cho đến cuối đời.
Những người phụ nữ sẽ chôn các đồ vật có chứa ký tự Nushu theo các bà
bạn khi họ qua đời.
Đến khoảng giữa những năm 1960, có một
người phụ nữ Dao bị ngất tại một ga tàu trong thành phố. Cảnh sát Trung
quốc tìm thấy người phụ nữ này có mang theo một mảnh giấy có in chữ
Nushu, thoạt trông rất nghi ngờ vì nó là một ngôn ngữ bí mật. Lúc này
đang là cao trào của cách mạng văn hóa ở Trung quốc, nên người phụ nữ
này bị bắt giam vì tình nghi là gián điệp. Chính quyền Trung quốc đã cho
giải mã ngôn ngữ này. Nực cười thay, chính những người tham gia chiến
dịch đã bị đưa đi trại lao động sau khi giải mã thành công ngôn ngữ
Nushu, vì chính quyền không muốn để lộ bí mật về ngôn ngữ này ra ngoài.
Cuối cùng, bí mật về ngôn ngữ này cũng
được hé lộ vào những năm 1980 bởi một học giả người Mỹ gốc Hoa tên là
Lisa See. Khi đang nghiên cứu về tục bó chân của phụ nữ, tình cờ học giả
này phát hiện ra có một ngôn ngữ riêng của họ. Lần từ dấu vết này,
người ta đã khám phá ra cả một nền văn hóa riêng của dân tộc Dao. Sau
đó, Lisa See đã viết truyện Hoa Tuyết và Chiếc Quạt Bí Mật, sau đó được
bà Wendy Deng chuyển thành phim năm 2011.
Cuối tháng 4 năm 2004, các nhà lưu trữ
Trung Quốc công bố một bộ sưu tầm quý hiếm những đồ vật mang đặc trưng
của Nushu. Triển lãm diễn ra tại khu tự trị Choang, Quảng Tây, là một
phần trong những nỗ lực nằm nhận diện và bảo tồn thứ ngôn ngữ mà nhiều
học giả lo ngại là đang ở bờ tuyệt chủng. Orie Endo – giáo sư về ngôn
ngữ xã hội tại Đại học Bunkyo, Nhật Bản, người được xem là chuyên gia
đầu tiên của thế giới về Nushu – cho rằng Nushu bắt nguồn từ một tập
quán có tên gọi Jiebai Zimei, hay “hội phụ nữ chí cốt” trong các vùng
Daoxian, Jianghua, Jiangyong, và Yongjiang. Endo cho rằng có thể kiểu
chữ Nushu được gợi ý từ những mẫu hoa văn thêu thùa. Rất nhiều đồ vật
trong triển lãm sẽ phản ánh ý tưởng này, trong đó có các tạp dề, túi
xách, khăn tay và khăn quàng có thêu các ký tự Nushu.
“Chúng tôi đã sưu tầm được 300 đồ vật
mang theo thứ ngôn ngữ hiếm hoi này trong 5 chuyến đi tới hạt Yongjiang,
nơi ra đời của thứ ngôn ngữ chỉ dành cho phái yếu hồi năm ngoái”, Liu
Gening, một trong những nhà sưu tầm, cho biết.
“Chiếc cổ nhất trong số chúng có từ cuối
triều Thanh, vào đầu những năm 1900, và vật gần đây nhất là từ những
năm 1960-1970”. Cũng theo Liu, Nushu hiện vẫn còn được sử dụng, nhưng
chỉ ở một vài cụ bà hiếm hoi sống trong các vùng nông thôn xa xôi.
Một trong những người phụ nữ cuối cùng biết ngôn ngữ Nushu bí ẩn.
Một vài nhà ngôn ngữ châu Á hy vọng sẽ
bảo tồn được ngôn ngữ này thông qua sách vở, giáo dục và những nỗ lực
tiếp theo, nhằm duy trì thứ ngôn ngữ được xem là chữ viết độc quyền duy
nhất của phái yếu trên thế giới.
Ngày nay, con gái người dân tộc Dao cũng
học chữ Hoa như con trai, nên ngôn ngữ Nushu bị mất đi giá trị sử dụng
và đang dần dần biến mất. Người ta cho rằng chỉ còn khoảng 10 phụ nữ Dao
cao tuổi hiện có thể viết Nushu một cách thành thạo.
Tuấn Khanh tổng hợp
Tiểu mục Văn thơ là bức ký họa thơ
ca, tản văn, âm nhạc mà chuyên mục Văn hóa Thời báo Đại Kỷ Nguyên muốn
dành tặng cho độc giả, để tìm về với nơi thuần khiết sâu thẳm nhất của
chính mình, như một nốt lặng trầm quý giá trong bản nhạc cuộc sống
thường nhật ồn ào, sôi động.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét